Địch Thanh rời khỏi Đại Tướng Quốc Tự mà mãi chẳng hay rằng mình đang đi lang thang khắp nơi. Chỉ đến khi bóng tà dương dần khuất, đàn chim mệt mỏi bay về tổ thì hắn mới chợt tỉnh táo lại, tự hỏi vì sao hồn vía mình lại lên mây như thế, chẳng lẽ vẫn còn muốn tìm Đa Văn Thiên Vương?
Vừa nghĩ đến Đa Văn Thiên Vương, lửa giận trong lòng Địch Thanh lại bùng lên, ngẫm nghĩ: “Di Lặc giáo đồ này xem ra còn có chút tôn kính đối với phật Di Lặc. Đa Văn Thiên Vương đến một lần, không chừng sẽ đến lần thứ hai. Đã thế, sao mình không về Đại Tướng Quốc Tự xem thử, có khi gặp hắn cũng nên.” Mới đi được vài bước, hắn đã không cầm lòng được, lại nghĩ: “Không biết nàng ấy đã rời khỏi Đại Tướng Quốc Tự hay chưa?”
Nghĩ tới đây Địch Thanh mới nhận ra là ngay cả bản thân hắn cũng không rõ mình muốn quay về Tướng Quốc Tự là muốn tìm Đa Văn Thiên Vương hay người con gái kia. Hắn không khỏi tự chế nhạo bản thân: “Địch Thanh ơi là Địch Thanh, bộ dạng ngươi thế này mà cũng mơ mộng hão huyền hay sao?”
Địch Thanh không muốn nghĩ đến người con gái đó nữa, bèn nhắm chuẩn phương hướng chạy về phía Đại Tướng Quốc Tự, trên đường đi hắn ghé qua sạp mua hai cái bánh bao cất vào trong lồng ngực. Lúc này đám đông tụ họp trong chùa đã sớm giải tán, dân chúng cũng đều đã bỏ về nên trong chùa đã thanh tịnh hơn rất nhiều.
Địch Thanh bước vào trong Thiên Vương điện, thấy trên bàn thờ khói hương nghi ngút, chỉ còn một tăng nhân đang gõ mõ ở lại. Trong lòng khẽ động, hắn lặng lẽ vòng ra phía sau bàn thờ, thừa dịp tăng nhân này không chú ý liền chui xuống phía dưới bàn thờ. Hắn làm việc không dựa vào một quy tắc nào nào cả, chỉ nghĩ rằng nếu hắn ở đây lâu thì chắc tăng nhân trong tự sẽ cảm thấy lạ, có khi lại đuổi hắn ra ngoài không chừng, nên dứt khoát phải trốn trước đã.
Dưới bàn thờ tương đối sạch sẽ, Địch Thanh nhẹ nhàng mà rút thanh đao ở thắt lưng ra, rạch một khe nhỏ trên tấm màn bằng vải bố để nhìn ra ngoài dò xét. Hắn khoanh chân ngồi xuống, trong lòng nhất thời dao động, không biết biện pháp ôm cây đợi thỏ này có tác dụng hay không. Nhưng muốn tìm Đa Văn Thiên Vương thì thực sự hắn cũng không nghĩ ra được biện pháp nào hay hơn nữa.
Màn đêm buông xuống, đèn vàng thắp lên, Đại Tướng Quốc Tự dần dần rời xa tiếng ồn ào náo nhiệt, trong tự chỉ còn văng vẳng tiếng kinh cầu. Nghe được âm thanh ôn hòa này, trong lòng Địch Thanh đã tĩnh lặng trở lại. Hắn vẫn nhìn ra ngoài dò xét xung quanh từ lỗ hổng trên tấm màn bằng vải bố, nhưng nhìn chăm chú liên tục khiến cho con mắt trở nên đau nhức, mà Đa Văn Thiên Vương lại không xuất hiện lần thứ hai.
Địch Thanh thấy hơi đói bụng, bèn móc bánh bao ra xé một miếng, sợ phát ra tiếng động làm cho tăng nhân phát hiện nên liền cho vào trong miệng chậm rãi nhai. Sau khi ăn bánh bao xong, lại qua nửa canh giờ, Địch Thanh ngồi lâu bàn chân tê rần, biết đã gần đến nửa đêm, không khỏi cảm thấy vô cùng uể oải. Hắn thầm nghĩ, cửa chùa đã đóng lâu rồi, chắc chắn là Đa Văn Thiên Vương sẽ không tới.
Lúc này có tiếng bước chân vang lên, tinh thần Địch Thanh chấn động, bèn đưa mắt nhìn lại. Phía trước có một tăng nhân và một tục nhân đi tới, tăng nhân này mặt mũi hiền lành, dưới cằm râu trắng như cước; tục nhân kia thì đưa lưng về phía Địch Thanh, trên người không có đeo vật gì dài như trường tán, không giống với người mà Địch Thanh đang đợi. Địch Thanh nhìn không thấy chính diện mặt mũi của tục nhân, chỉ thấy được giày của hắn là thêu hoa dệt gấm, cực kỳ hoa mỹ. Địch Thanh biết đôi giày này là do danh phường kinh thành Ngũ Hồ Xuân làm ra, người mua đều là quan to quyền quý.
Nhưng người vừa đến hoàn toàn không có quan hệ gì với Địch Thanh. Hắn vô cùng thất vọng, nhắm hai mắt lại, chỉ nghe thấy tục nhân kia hỏi: “Trụ trì, ta có một chuyện muốn thỉnh giáo.” Âm điệu người này tuy còn trẻ nhưng trong giọng nói ẩn chứa vẻ chán nản, giống như một lão già bảy tám mươi tuổi.
Địch Thanh hơi ngạc nhiên, cảm thấy giọng điệu người này và khuôn mặt của Đa Văn Thiên Vương có chung một điểm là không hài hòa với vẻ bình thường. Hắn lại nghĩ “Trụ trì Đại Tướng Quốc Tự phụ thuộc hoàng gia, không phải muốn gặp là gặp được, vậy mà người này có thể mời chủ trì giải thích nghi vấn, không biết có địa vị gì đây?”
Trụ trì nói: “Thí chủ, xin cứ hỏi.”
Tục nhân buồn rầu nói: “Thiên đàng là ở đâu vậy?” Địch Thanh thiếu chút nữa phá lên cười, thầm nghĩ “Chẳng lẽ kinh thành này không phải Thiên đàng sao?” Nghĩ lại một chút, khóe miệng hắn mang theo một nét cười.
Trụ trì chậm rãi đáp: “Nhược tầm tịnh thổ, đương cầu tịnh tâm. Tùy kỳ tâm tịnh, vô xử bất tịnh thổ.” (Muốn thấy Niết bàn, để lòng thanh tịnh. Khi tâm đã tịnh, đâu chẳng Niết bàn)
Trong lòng Địch Thanh cười khổ, “Tuy nói thì là vậy, nhưng muốn tịnh tâm đâu phải là chuyện dễ dàng như vậy?”
Tục nhân cũng nói: “Cao tăng nói rất đúng, nhưng ta làm thế nào cũng không thể tĩnh tâm được, vẫn luôn cảm thấy khắp nơi đều là địch, như ở trong lồng giam, nên mới đến đây để cầu phật.” Địch Thanh nghe thấy giọng nói người kia tràn đầy vẻ hoang mang khốn khổ, hệt như con thú bị hãm sâu vào cạm bẫy, trong lòng hắn đột nhiên dâng lên sự đồng tình. Nhiều năm qua, Địch Thanh cũng vùng vẫy ở trong gian khổ nên đồng cảm với thứ cảm giác cay đắng mà bản thân hắn từng trải qua này.
Trụ trì đáp: “Thánh nhân cầu tâm không cầu phật, ngu nhân cầu phật không cầu tâm. Thí chủ, bần tăng muốn kể một chuyện xưa …”
Tục nhân vui vẻ nói: “Xin cứ nói.”
Trụ trì chậm rãi nói: “Nghe kể rằng bên bờ biển Đông có một con chim bói cá, chán ghét thế tục xấu xa, nó cảm thấy thiên hạ đều là kẻ địch. Chính vì thế nó bay đến rừng núi ven biển làm ổ xây tổ, tưởng rằng sẽ không còn nguy hiểm nữa, nhưng không ngờ đến một ngày thủy triều dâng lên, hang ổ bị sóng biển cuốn đi. Chim bói cá than thở nói: “Trong lòng có địch, khắp nơi đều là địch.”
Địch Thanh nghe xong trong lòng có chút hỗn loạn, thoáng nghĩ, “Ta vốn chẳng muốn coi Đa Văn Thiên Vương là địch, nhưng nếu người này không chết thì đại loạn sẽ không thể dừng lại được. Nếu hắn muốn quay đầu làm người tốt…” Nghĩ tới đây, khóe miệng nhếch lên một nụ cười cay đắng, ” Nếu hắn muốn quay đầu làm người tốt, ta có thể tha hắn không? Sợ rằng không thể. Nếu không gần nghìn thường dân đã chết ở thung lũng Phi Long chẳng phải quá oan uổng sao?”
Tục nhân yên lặng một lúc lâu, lúc này mới nói: “Đa tạ đại sư chỉ bảo, ta đã biết nên làm như thế nào rồi. Đại sư vất vả rồi, ta có ý muốn trùng tu chùa chiền, làm một chút công đức, không biết ý đại sư thế nào?”
Trụ trì nói: “Trùng tu, không tu, không gì công đức, trong lòng có phật, đã là công đức.”
Tục nhân hiểu ý, hai tay hợp thành chữ thập thi lễ, chậm rãi bỏ đi, trụ trì cũng theo sau, Thiên Vương điện thoáng cái đã yên tĩnh trở lại.
Địch Thanh nghe thấy cao tăng giảng kinh Phật, cảm thấy có lý nhưng lại cảm thấy không bỏ xuống được, lại có chút tò mò về lai lịch tục nhân kia. Đang miên man trong suy nghĩ thì đột nhiên cảm thấy một tia sáng xuyên qua tấm màn bằng vải bố, tối rồi lại sáng. Địch Thanh khẽ rùng mình, tiến đến phía sau màn che bằng vải bố nhìn ra bên ngoài thì chỉ thấy một người đứng yên trước tượng phật Di Lặc, bên hông có mang một cái đai lưng màu xanh, lưng đeo trường tán, đúng là người mà hắn muốn tìm kiếm.
Tim Địch Thanh đập thình thịch, nhìn qua mặt người đó. Chỉ thấy khóe miệng người đó hơi mỉm cười, nhưng khuôn mặt cực kỳ lạnh lẽo u ám, đang nhìn phật Di Lặc đến xuất thần. Địch Thanh nhìn người đó một lúc lâu, thấy y vẫn duy trì tư thế không đổi một chút nào, trong lòng không khỏi cảm thấy ớn lạnh. Địch Thanh biết mình dù cho không bị thương thì võ công so với người đó cũng kém quá xa, thời khắc này hắn còn không dám thở mạnh một cái, thầm than Quách Tuân đã rời khỏi kinh thành, nếu không cũng có thể tìm Quách Tuân đối phó với người kia.
Không biết đã qua bao lâu, bên ngoài cửa điện có tiếng bước chân truyền đến, một tăng nhân bước vào. Nhìn thấy người kia đứng lặng im trước tượng phật, tăng nhân không khỏi ngạc nhiên trầm giọng quát khẽ: “Ngươi là ai?” Đại Tướng Quốc Tự là quốc tự, để ngọn đèn dầu ở chủ điện cả đêm không tắt, tăng nhân này phụ trách nửa đêm đến đây thêm dầu thắp thì bỗng nhiên nhìn thấy có người lạ ở đây, khó tránh khỏi vô cùng kinh ngạc.
Người đó nghe được tiếng quát hỏi, đột nhiên xoay người lại, thoáng cái đã bước đến trước mặt tăng nhân. Trường tán trên lưng khẽ động, cán tán đã đập vào sau gáy tăng nhân.
Tăng nhân còn chưa kịp tri hô thì cả người đã mềm nhũn ngã xuống đất. Người kia khẽ vung tay ra đã bắt được hũ dầu mà tăng nhân lúc nãy cầm trong tay, đi một vòng quanh đại điện để nắm rõ tình hình, châm thêm dầu cho những ngọn đèn ở bốn vách tường.
Địch Thanh từ một nơi bí mật gần đó xem chân thật rõ ràng, lại không hiểu được người này rốt cuộc muốn tìm kiếm cái gì.
Người đó thêm dầu xong xuôi thì trở lại ngồi trước mặt phật Di Lặc, nhìn Di Lặc phật chủ, lẩm bẩm nói: “Di Lặc hạ sinh, tân phật độ kiếp … Ngũ Long xuất thế, lệ tích bất tuyệt?”
Hắn lặp lại không ngừng mấy câu nói đó, hình như đang suy nghĩ cái gì đó. Địch Thanh nghe không hiểu gì hết, thầm nghĩ trước đây ở thung lũng Phi Long, người này niệm chú để mê hoặc nhân tâm, nhưng hiện giờ ở chỗ này chỉ có một mình hắn thì còn niệm cái chú ngữ quái quỷ gì đây?
“Ngũ Long xuất thế, lệ tích bất tuyệt. Di Lặc hạ sinh, tân phật độ kiếp!” Người đó lại đem những lời này niệm đến điên đảo, miết chặt đầu mày, ánh mắt đặt ở trên tượng phật Di Lặc.
Dưới ngọn đèn dầu, tượng phật Di Lặc rạng rỡ tỏa sáng. Trong ánh mắt người đó đột nhiên lộ ra vẻ vui mừng, thấp giọng nói: “Đúng rồi, Di Lặc hạ sinh, tân phật độ kiếp!” Dù hắn có nói hay không nói thì nụ cười ở khóe miệng vẫn tồn tại.
Địch Thanh chợt tỉnh ngộ, “Người này chắc chắn là đang mang mặt nạ cải trang.” Hắn chưa kịp suy nghĩ nhiều thì thân hình người đó đã nhảy vút lên cạnh đài sen, chuyển tới bên thân tượng phật Di Lặc, đi liên tục mấy vòng.
Địch Thanh không nhịn được thò đầu ra khỏi tấm màn bố quan sát, cũng may toàn bộ tâm tư của người này đều đặt trên người tượng phật Di Lặc nên không ngờ rằng dưới bàn thờ còn có người đã nhìn thấy tất cả.
Người kia rốt cuộc cũng dừng lại, lấy tay gõ gõ vào thân tượng phật Di Lặc, hai tay đột nhiên để ở trên tượng phật Di Lặc, tập trung tinh thần dùng hết sức, khẽ gầm một tiếng. Chỉ nghe thấy tiếng ầm ầm vang lên, tượng Di Lặc phật đã bị hắn đẩy khỏi đài sen.
Trong tiếng nổ, tượng phật Di Lặc đã vỡ thành bốn năm mảnh, bụi bay tràn ngập không gian. Đột nhiên có một tiếng vang nhỏ “đinh” truyền đến, người kia nhảy xuống đưa tay chụp lấy một vật gì đó trong mảnh vỡ của tượng phật, không nén được vui mừng nói: “Quả nhiên ở chỗ này.”
Trong lòng Địch Thanh tràn đầy hiếu kỳ, không biết người này rốt cuộc vừa lấy vật gì?
Đúng lúc này, bên ngoài Thiên Vương điện truyền đến mấy tiếng quát lớn: “Là ai ở trong điện?” Tiếng quát chưa dứt thì đã có mấy võ tăng tiến vào.
Đại Tướng Quốc Tự mặc dù lấy việc nghiên cứu tinh hoa Phật pháp, vì hoàng tộc phục vụ là chính, nhưng trong chùa cũng thu không ít vàng bạc pháp khí, danh gia mặc bảo, sợ đám trộm vặt lớn gan vào chùa trộm cướp cho nên lúc nào cũng có võ tăng hộ viện. Vào Đại Tướng Quốc Tự trộm cướp là trọng tội, xưa nay đều phải bị chém đầu nên quả thực đã uy hiếp không ít đạo tặc. Bởi vì nguyên nhân này mà mấy năm qua ít có kẻ trộm, tăng nhân trong chùa cũng thoải mái rất nhiều, không ngờ hôm nay trong Thiên Vương điện lại có thay đổi lớn. Mấy võ tăng tuần viện nghe được tiếng động vội vàng chạy vào thì chỉ nhìn thấy bên cạnh tượng phật Di Lặc bị phá vỡ có đứng một người, không khỏi vừa sợ vừa giận, cũng không dò hỏi mà vung côn tấn công người đó.
Đa Văn Thiên Vương hừ lạnh một tiếng, đưa tay nắm lấy trường côn, tung người đá tới, đã đem một võ tăng đá bay ra ngoài. Đám võ tăng kinh hãi, như thế nào lường trước được võ công người này cao cường đến như vậy, nhưng đã mang trong người trách nhiệm bảo vệ chùa, dù không đánh lại cũng phải kiên trì bao vây tới cùng.
Địch Thanh chỉ nghe được tiếng kêu “Ai ui má ơi” không dứt, chỉ trong chớp mắt, mấy người võ tăng vọt tới đều bị Đa Văn Thiên Vương đánh bay ra ngoài. Địch Thanh vốn định cùng võ tăng liên thủ nhưng lại sợ bị võ tăng hiểu lầm là đồng đảng của tên trộm kia, không chừng ăn không được thịt dê, trái lại còn chuốc lấy phiền phức vào người. Trong lúc hắn đang lưỡng lự thì Đa Văn Thiên Vương đã lẻn đến trước điện, vừa mới nhảy ra ngoài điện, liền nghe được một tiếng hét lớn: “Nằm xuống!”
Một vệt kiếm quang như trăng sáng xuyên mây, đâm về phía trước ngực Đa Văn Thiên Vương!
Y kinh hãi lùi lại một bước. Nhưng thanh kiếm kia hư hư thực thực, biến hoá khó lường, Đa Văn Thiên Vương sau khi lùi một bước, lại bị bức lui thêm hai bước. Người xuất kiếm cũng âm thầm lặng lẽ đánh một chưởng vào giữa ngực Đa Văn Thiên Vương.
Y bị một chưởng đánh cho bay ngược trở lại, trong lồng ngực khí huyết nhộn nhạo, không khỏi hoảng hốt, thầm nghĩ tên đó làm sao lại ở chỗ này? Trước khi hắn tới đây đã thăm dò được địa thế trong điện, lại biết được võ tăng ở Đại Tướng Quốc Tự tuy đông nhưng đều không phải là đối thủ của hắn, vì vậy không kiêng dè gì cả, đâu ngờ kẻ thù một mất một còn của mình vậy mà cũng đi tới Đại Tướng Quốc Tự.
Địch Thanh nhìn thấy người vừa đến ánh mắt như kiếm phong thì trong lòng mừng rỡ, thì ra người xuất kiếm đẩy lùi kẻ trộm lại chính là bộ đầu Khai Phong phủ Diệp Tri Thu!
Một chưởng Diệp Tri Thu trúng đích vẫn không hề buông tha. Cả người hắn theo kiếm bay tới, kiếm quang trùng trùng đâm tới mọi chỗ trên cơ thể kẻ địch.
Đa Văn Thiên Vương hừ lạnh một tiếng, trở tay vớ lấy cái trường tán đeo trên lưng xuống, chỉ cần điểm nhẹ lên mặt đất vậy mà bay nhanh trở ra. Diệp Tri Thu ngạc nhiên với tài nghệ của Đa Văn Thiên Vương nhưng chẳng hề buông tha, mũi chân liên tiếp điểm mấy cái, cưỡi gió đuổi theo.
Hai người một tiến một lùi, thoáng cái đã đến bên cạnh tượng phật Tứ Đại Thiên Vương. Đa Văn Thiên Vương cuối cùng không chạy nữa mà gào to một tiếng, cầm tán đâm tới Diệp Tri Thu. Trong lòng Diệp Tri Thu rùng mình, biết rõ trường tán của người này biến hóa vô cùng nên tập trung toàn bộ tinh thần mà chống đỡ.
Đa Văn Thiên Vương thấy thế thì cười một tràng dài, thò tay kéo một tượng Phật sắp đổ ném về phía Diệp Tri Thu. Diệp Tri Thu đành phải lùi ra sau một bước, Đa Văn Thiên Vương thừa cơ tung người nhảy lên đỉnh tượng Phật, lại nhảy tiếp lên một cái xà ngang trên nóc điện, nhưng cực hạn của hắn vẫn còn cách xà ngang một cánh tay. Bất kỳ lúc nào cũng có thể rơi xuống, nhưng không ngờ hắn trở cán dù móc vào rồi ôm lấy xà ngang Thiên Vương điện. Đa Văn Thiên Vương cố gắng leo lên xà ngang rồi theo đà đánh vỡ đỉnh điện lưu ly, vọt khỏi nóc Thiên Vương điện.
Đỉnh điện mặc dù cao như qua mấy lần mượn lực, hắn cũng đã leo lên được đỉnh điện mà bỏ chạy.
Diệp Tri Thu vô cùng giận dữ, không ngờ hắn ta lại ứng biến nhanh nhạy đến như vậy. Gã cũng không muốn khinh nhờn tượng phật, nhưng lại hoàn toàn không có cách gì leo lên nóc điện nên chỉ có thể lách mình ra khỏi điện, thét ra lệnh thuộc hạ “Bao vây Thiên Vương điện.” Nhưng mệnh lệnh hắn vừa ra thì tự biết đã có vấn đề lớn, dù sao Thiên Vương điện cũng không phải là đại điện cách ly, mà nó liền cùng một chỗ với Vũ Liên điện, tuyệt đối không có chuyện tên trộm kia ngồi ở đỉnh điện chờ người lùng bắt, chỉ sợ lúc này sớm đã trốn thoát mất rồi.
Ánh trăng như nước, chiếu một mảnh tiêu điều trong trời đất. Diệp Tri Thu nhất thời cau mày, phỏng đoán mục đích đến của người này. Đột nhiên nghe được trong điện truyền đến vài tiếng quát: “Người nào?” Trong lòng Diệp Tri Thu ngạc nhiên, vội lách mình vào trong điện, ánh mắt dừng lại ở đám võ tăng vây bắt một người thì nghẹn ngào nói: “Ngươi…” Trong lòng hắn khẽ động, hét lớn: “Là người một nhà, các vị hãy thu hồi gậy gộc lại đi.”
Mới vừa rồi Diệp Tri Thu cùng Đa Văn Thiên Vương trong điện đại chiến, đám võ tăng không làm được gì nên đều cảm thấy vừa thẹn vừa ngượng, thấy kẻ trộm phá đỉnh điện chạy thoát thì càng khiến cho mọi người trợn mắt líu lưỡi, không ngờ trên đời này còn có công phu bậc này. Những tăng nhân hộ tự này suốt ngày luyện võ, tuy nói là tăng nhân vô dục vô cầu nhưng đối với tài năng của Diệp Tri Thu tại Khai Phong thì cũng có lòng muốn tỷ thí. Nhưng hôm nay thấy người cầm tán kia hoành hành không kiêng nể gì ai, nếu như không có Diệp Tri Thu thì chỉ sợ tất cả mọi người đều mất mặt, cho nên vừa kính nể vừa cảm kích Diệp Tri Thu, liền thu hồi côn bảng.
Địch Thanh hơi xấu hổ, kêu lên: “Diệp bộ đầu.”
Thì ra khi Đa Văn Thiên Vương lật nhào tượng phật, thiếu chút nữa là đập xuống bàn thờ, Địch Thanh bị dọa cho xanh mặt, không thể ẩn náu được nữa mà lao ra ngoài, đám võ tăng thấy có người khác thì muốn lập công chuộc tội nên vây Địch Thanh lại. Địch Thanh thầm nghĩ không xong, nhất thời không biết giải thích thế nào mới phải.
Diệp Tri Thu cau mày, đột nhiên nói: “Ngươi vì theo dõi Đa Văn Thiên Vương này mà đến đây sao?”
Địch Thanh bội phục nói: “Diệp thần bộ quả nhiên danh bất hư truyền. Ban ngày, ta nhìn thấy người này ở trong chùa đi tới đi lui, lòng mang ý đồ xấu, nghĩ rằng có khả năng buổi tối hắn sẽ tới đây nên mới ở chỗ này ôm cây đợi thỏ. Người kia chính là Đa Văn Thiên Vương, nói như vậy thì ta không có nhận lầm người rồi?”
Diệp Tri Thu thấy Địch Thanh nói vô cùng tỉ mỉ xác thực, biết hắn tuyệt đối không phải là bè đảng của Di Lặc giáo, và cũng vì nguyên do Quách Tuân, chẳng ngờ nhiều chuyện phức tạp xảy ra, bèn nói rằng: “Tốt, ngày khác ta sẽ thỉnh công cho ngươi. Ngươi… trước tiên hãy rời khỏi Đại Tướng Quốc Tự đi.”
Địch Thanh không nghĩ núp ở dưới gầm bàn mà cũng có công lao, thoạt nhìn thời gian khổ cực cũng đã qua. Hắn vừa định nói gì thì có người vội vội vàng vàng tới bên cạnh Diệp Tri Thu, thấp giọng thì thầm hai câu. Diệp Tri Thu gật đầu, nói với Địch Thanh: “Ta … còn có việc khác, ngươi rời khỏi nơi đây trước đi đã.” Hắn hai lần bảo Địch Thanh rời khỏi Đại Tướng Quốc Tự, vẻ mặt hình như có điều bí ẩn khiến cho Địch Thanh có phần khó hiểu. Chỉ có điều Địch Thanh biết rõ Diệp Tri Thu có ý tốt, liền gật đầu rời khỏi chùa. Vừa mới ra khỏi Đại Tướng Quốc Tự, cửa chùa “Ầm” một tiếng đóng chặt, y thầm nghĩ đám tăng nhân này đây hơn phân nửa thấy tượng phật Di Lặc bị phá hỏng, sợ gánh trách nhiệm cho nên len lén ở trong chùa tu bổ, nhưng Diệp Tri Thu thì ở trong chùa làm gì?
Địch Thanh lắc đầu không muốn suy nghĩ nhiều bèn trở về phủ đệ của Quách Tuân.
Quách phủ không nhỏ nhưng lại chỉ có huynh đệ họ Quách sống, Quách Tuân trong một năm thì đã có hơn nửa năm ở bên ngoài kinh thành bắt giặc dẹp loạn, mấy năm nay Địch Thanh vẫn ở lại Quách phủ. Địch Thanh ghé qua thăm Quách Quỳ trước, thấy nó đã ngủ say bèn nhặt cái chăn rơi trên mặt đất, nhẹ nhàng đi vào trong thay cho Quách Quỳ một cái chăn ấm, lúc này mới trở lại gian phòng của mình, châm ngọn đèn dầu.
Ngọn đèn lập loè giống như đôi mắt đa tình của tình nhân, Địch Thanh nhìn ngọn đèn một lát, chậm rãi sờ tay vào ngực móc ra một hắc cầu to cỡ nửa nắm tay.
Chẳng ai biết đó là vật gì, Địch Thanh cũng vậy. Lại nói tiếp cũng là trời xui đất khiến làm sao mà nó từ trên người Đa Văn Thiên Vương rơi xuống.
Lúc đó Đa Văn Thiên Vương phá vỡ tượng phật Di Lặc, lấy ra một vật từ trong đó, làm kinh động võ tăng và Diệp Tri Thu, Đa Văn Thiên Vương bị Diệp Tri Thu đánh một chưởng làm rơi ra một hắc cầu, lăn xuống dưới bàn thờ. Địch Thanh đưa tay tóm lấy, trực tiếp suy đoán ở trong lòng, hắn biết thứ này chắc là quan trọng đối với Đa Văn Thiên Vương nên đem vật này giữ lại trên người.
Lúc ở Đại Tướng Quốc Tự, Địch Thanh vốn định nói với Diệp Tri Thu điều này nhưng Diệp Tri Thu vội vội vàng vàng rời đi làm cho Địch Thanh không có cách nào mở miệng. Địch Thanh cầm hắc cầu này, thấy nó cũng không phải sắt, toàn bộ đen nhánh rất bắt mắt, cảm giác thô ráp, không hiểu sao Đa Văn Thiên Vương lại phải vất vả mạo hiểm?
Lật qua lật lại nhìn hồi lâu bỗng nhiên phát hiện hắc cầu hình như lóe hàn quang nhè nhẹ, Địch Thanh không nhịn được cầm hắc cầu tiến về phía ngọn đèn, vừa nhìn đã phát hiện trên hắc cầu có khắc hai chữ triện “Ngũ Long”.
Địch Thanh cau mày, nhớ tới theo như lời Đa Văn Thiên Vương lẩm bẩm nói, “Di Lặc hạ sinh, tân phật độ kiếp. Ngũ Long xuất thế, lệ tích bất tuyệt.” Xem ra phật Di Lặc không phải độ kiếp mà là gặp nạn, mới sinh ra vật Ngũ Long này.
Hắc cầu này nếu như là Ngũ Long thì rốt cuộc có tác dụng gì?
Địch Thanh nghĩ đến đau cả đầu mà vẫn không nghĩ ra. Hắn thử dùng đơn đao khứa nhẹ lên mặt hắc cầu thì phát hiện ra vật này cực kỳ cứng rắn, đao sắc như thế mà cũng không để lại một vết tích nào.
Địch Thanh nghiên cứu liên tục một canh giờ mà mãi vẫn không thể khám phá ra được điều gì, hắn bực mình ném cục sắt kia lên mặt bàn, lầm bầm nói: “Cái thứ khỉ gió gì đây chứ, lãng phí thời gian ngủ của lão tử quá.”
Bận rộn cả đêm, giờ đã thấy tờ mờ sáng. Địch Thanh không thèm cởi giày, cứ thế ngã lăn ra giường nhìn lên nóc nhà, trong đầu đột nhiên lại hiện ra khuôn mặt thanh lệ thoát tục kia. Hắn liền lắc đầu cố xua hình bóng kia ra khỏi đầu, mơ mơ màng màng ngủ thiếp đi.
Không biết đã qua bao lâu, Địch Thanh đột nhiên cảm thấy trước mắt có sợi tơ sáng ngời, bỗng nhiên mở hai mắt ra. Gian phòng của hắn quay về hướng đông, mặt trời mọc lên ở phương đông, tia sáng đầu tiên của ánh mặt trời lúc nào cũng có thể chiếu vào đây. Địch Thanh dần cũng quen với ánh mặt trời nhưng lại cảm thấy lần này mặt trời khác thường, hắn mở choàng hai mắt thì đột nhiên nhìn thấy cảnh tượng đẹp đẽ đến khó tin, kinh ngạc đến nỗi thiếu chút nữa thét to lên.
Hóa ra trước mắt hắn xuất hiện một dải lụa màu hồng, bằng phẳng trải rộng ra, trên dải lụa tràn đầy những chấm li ti kì quái, trong lúc nhất thời khó mà phân biệt được đây là cái gì.
Địch Thanh chỉ ngơ ngác trong chốc lát, hắn bị cảnh tượng trước mắt làm cho kinh hãi, không khỏi hét to một tiếng. Tiếng hét của hắn vừa phát ra thì dải lụa hồng đột nhiên biến mất, trong phòng liền yên tĩnh trở lại. Chỉ thấy một luồng ánh sáng mặt trời xuyên qua cửa sổ chiếu vào trên giường, Địch Thanh lúc này mới phát hiện toàn thân mình mồ hôi lạnh tuôn ra đầm đìa, đồng thời mí mắt trái của hắn giật giật liên tục.
Cửa phòng mở ra. Quách Quỳ chạy ùa vào hỏi: “Địch nhị ca, sao vậy?”
Địch Thanh bất thình lình nhảy dựng lên tóm lấy Quách Quỳ hỏi: “Tiểu Quỳ, đệ mới vừa rồi … có thấy dải lụa hồng đó không?”
“Lụa hồng, lụa hồng nào cơ?” Quách Quỳ chẳng hiểu gì, đưa tay sờ soạng cái gáy của Địch Thanh, “Huynh làm sao mà ra nhiều mồ hôi như vậy, bị bệnh à? Mí mắt huynh sao mà giật giật liên tục vậy?”
Địch Thanh lau mồ hồi trên mặt, cảm thấy mí mắt cuối cùng cũng đã ngừng giật, gấp gáp nói: “Mới vừa rồi nếu đệ ở bên ngoài, hẳn là phải thấy ở trong phòng này có một dải lụa màu hồng, từ mặt tường này kéo dài tới mặt tường kia.” Hắn khoa tay múa chân để minh họa, thấy Quách Quỳ kỳ quái nhìn mình thì mất hứng bỏ tay xuống, lẩm bẩm nói: “Đệ không có nhìn thấy gì sao?”
Quách Quỳ khó hiểu nói: “Đệ vốn muốn tìm huynh, từ ở bên ngoài cửa sổ nhìn thấy huynh đang ngủ say. Đệ đang lưỡng lự có nên chờ một lát hay không thì chợt nghe huynh thét to một tiếng, đệ lập tức chạy vào đây, đâu có thấy lụa hồng gì đâu?” Trong lòng cậu bé thầm nghĩ “Địch nhị ca có phải vì lo lắng quá độ, buồn bực sinh ra bệnh rồi hay không?”
Địch Thanh nhìn chằm chằm Quách Quỳ, thấy thái độ của nó thành thật và nó cũng không cần phải bịa chuyện với mình làm gì, lẩm bẩm nói: “Chẳng lẽ đây chỉ là một giấc mơ sao?” Thấy Quách Quỳ lo lắng nhìn mình, Địch Thanh miễn cưỡng cười nói: “Đệ tìm huynh có chuyện gì thế?”
“Chính xác là Diệp bộ đầu tìm huynh … Nhưng mà gã đi rồi.” Quách Quỳ nói: “Địch nhị ca, tối hôm qua có phải huynh đến Đại Tướng Quốc Tự không?”
Địch Thanh cũng không giấu diếm mà kể lại chuyện đã xảy ra hôm qua cho Quách Quỳ nghe, nhưng mà hắn lược bỏ bớt đi chuyện cô gái áo trắng và hắc cầu. Hắn không muốn đề cập đến chuyện cô gái ấy và lại cảm thấy hắc cầu có chút quái dị. Vừa nghĩ đến hắc cầu, hắn không nhịn được nhìn về phía cái bàn, thấy cái vật kia vẫn bình thản nằm ở cạnh bàn, ánh sáng mặt trời chiếu ở trên mặt hắc cầu, vẫn là một màu đen nhánh tầm thường.
Quách Quỳ chú ý tới quả cầu kia, thắc mắc hỏi: “Đây là vật gì?”
“Huynh nhặt được.” Địch Thanh thuận miệng nói.
Quách Quỳ cầm ở trong tay xem xét, cười nói: “Hình như là sắt, nếu như là vàng thì ngon rồi.” Hắn để hắc cầu lại trên bàn, nói: “Diệp bộ đầu bảo đệ nói với huynh là mấy ngày này không nên đi tới Đại Tướng Quốc Tự. Còn…chuyện tối hôm qua thì cố gắng mà quên hết đi, nhớ kỹ nhé!” Chỉ sợ Địch Thanh có điều không vừa lòng, Quách Quỳ nói: “Diệp bộ đầu cũng là muốn tốt cho huynh. Y nói không có nghi ngờ huynh gì hết, nhưng có nhiều chuyện không cần để ý tới quá, để tránh khỏi chuốc lấy phiền phức vào người.”
Địch Thanh gật đầu nói: “Huynh hiểu rồi.”
Quách Quỳ thầm nghĩ: “Huynh hiểu rồi, nhưng đệ lại không hiểu gì hết.” Nhìn thấy được vẻ mặt Địch Thanh hoảng hốt thì không muốn hỏi nhiều, bèn xoay người rời đi. Địch Thanh nhớ tới hôm nay còn phải làm đương sai, bèn sửa sang lại trang phục chuẩn bị ra ngoài. Chức quan Thập Tương này của hắn tuy là cơm ăn không phải lo, nhưng chuyện nên làm thì vẫn phải làm tốt. Cũng may Đại Tống đã có vài chục năm không có chiến tranh, kinh thành vẫn bình an vô sự, cái gọi là việc đương sai, chỉ cần làm qua loa cho xong.
Trước khi ra ngoài, Địch Thanh nhìn hắc cầu trên bàn một lúc lâu, cuối cùng đem nhém vào trong lồng ngực, chẳng biết vì sao hắn có cảm giác ảo cảnh sáng nay dường như có liên quan đến hắc cầu này.
Vừa đến cấm quân doanh, Địch Thanh đã thấy có hai người xì xầm bàn tán. Hắn nhận ra người mặt dài như mặt ngựa tên là Trương Ngọc, người còn lại là Lý Vũ Hanh, có chùm râu dài rất uy mãnh nhưng con mắt so với hạt đậu tương lớn hơn không được bao nhiêu, khiến cho cái cái uy mãnh của hắn giảm đi nhiều.
Địch Thanh tiến lại gần hỏi: “Đang bàn chuyện gì vậy?”
Trương Ngọc và Lý Vũ Hanh đều xem như là bạn bè của Địch Thanh, quan hệ trong Kiêu Vũ quân doanh cũng không đến nỗi nào. Trương Ngọc là một Quân Đầu, so với Địch Thanh lớn hơn một cấp, Lý Vũ Hanh lại là một Tương Ngu Hầu, so với Địch Thanh thì nhỏ hơn một cấp. Bất kể là Quân Đầu, Thập Tương hay Tương Ngu Hầu, đều thuộc về quan quân cấp thấp, vì thế quản không được bao nhiêu việc, bổng lộc mỗi tháng nhiều lắm cũng chỉ chênh lệch một hai lượng bạc mà thôi, cho nên mọi người thường ngày cũng chỉ hi hi ha ha, ít có phân biệt cấp bậc.
Lý Vũ Hanh thấy Địch Thanh đến, ra vẻ thần bí nói: “Địch Thanh, ta kể cho ngươi một bí mật, nhưng mà ngươi chớ có nói cho người ngoài biết.”
Trương Ngọc bên cạnh cười mắng: “Con mẹ nó, hôm nay ngươi nói cái câu này cũng không dưới chục lần rồi, cái lỗ tai lão tử nghe được cũng to như cái nút chai rồi. Ngươi gặp người nào cũng nói cho hắn một bí mật, đến bây giờ cái bí mật đó người qua đường ai cũng đều biết hết rồi.”
Lý Vũ Hanh sờ sờ râu mép, chớp mắt nói: “Còn chưa có tới mười lần, mới có bảy lần.” Dứt lời hắn cười ha hả nói: “Địch Thanh, ngươi biết Đại Tướng Quốc Tự xảy ra chuyện gì không?”
Địch Thanh khẽ giật mình, nhớ tới lời Diệp Tri Thu dặn dò nên lắc đầu nói: “Không biết rõ lắm.”
Người Lý Vũ Hanh như lạc vào trong kỳ cảnh, hùng hồn nói: “Nghe nói ngày hôm qua, lúc nửa đêm, bầu trời trên Thiên Vương điện đột nhiên mây đen bao phủ, che khuất trăng sáng, bầu trời đột nhiên đánh ra một tia sét, đánh thủng nóc Thiên Vương điện, sau đó đánh vào trên tượng phật Di Lặc. Không chỉ như thế … tượng phật Di Lặc còn bị đánh vỡ thành bốn năm mảnh, uy lực còn lại phá hủy luôn tượng Tăng Trưởng Thiên Vương. Việc này người khác vốn không biết, nhưng ta có một người quen làm tạp dịch ở trong Đại Tướng Quốc Tự, ngày hôm nay ở trong chùa thấy có người tu bổ đỉnh điện Thiên Vương, có thể thấy được tin đồn quá nửa là thật.”
Địch Thanh âm thầm buồn cười nhưng không nói thẳng ra, chỉ gật đầu nói: “Đây quả đúng là một chuyện kỳ dị, cũng chỉ có người tài giỏi như ngươi mới có thể … biết.”
Lý Vũ Hanh đắc ý huênh hoang,”Ai nói không phải chứ?” Còn định nói thêm cái gì thì Triệu Luật đi tới nói: “Nhiều chuyện quá, không muốn làm việc nữa sao?”
Ba người Địch Thanh đứng lên, hô to: “Triệu Quân sử.” Triệu Luật chính là thuộc hạ của Quách Tuân, thường ngày Quách Tuân vắng mặt thì Triệu Luật phụ trách điều động nhân lực của Kiêu Vũ quân.
Triệu Luật xụ mặt nói: “Đừng có huyên thuyên nữa, cẩn thận họa từ cái miệng mà ra. Trương Ngọc, Địch Thanh, Lý Vũ Hanh, hôm nay ba người các ngươi đi Tây Hoa môn đến đường cái lân cận Tây Giác lâu tuần tra, chú ý những người lạ, không được chậm trễ.”
Ba người tuân lệnh, biết rõ mỗi lần sau khi kinh thành xảy ra điều dị thường thì đều phải tăng cường nhân thủ theo dõi tình hình. Hôm nay Đại Tướng Quốc Tự xuất hiện sự việc khác thường, chỉ sợ kinh thành đại nội, nội thành, ngoại thành sớm đã đông nghịt cấm quân.
Triệu Luật thấy Địch Thanh đi ra ngoài, đột nhiên gọi hắn lại nói: “Địch Thanh, ngươi chờ một chút.” Thấy Trương Ngọc, Lý Vũ Hanh đã đi xa, Triệu Luật lúc này mới nói: “Lần này tuần tra là làm việc theo thông lệ mà thôi, xảy ra chuyện thì chỉ cần báo hiệu là được rồi, không cần phải ra tay.” Hắn cũng không nói nhiều, xoay người rời đi, trong lòng Địch Thanh cười khổ, thầm nghĩ điều này hơn phân nửa là lời quan tâm của Quách đại ca. Bản thân mình mặc dù muốn thể hiện, nhưng ở trong mắt người khác thì mình cũng chẳng khác gì phế vật.
Ra khỏi cấm quân doanh, Trương Ngọc, Lý Vũ Hanh đã đợi sẵn, hai miệng một lời hỏi: “Địch Thanh, Triệu Quân Sử dặn dò cái gì thế?”
Địch Thanh thản nhiên nói: “Hắn kể ngày hôm qua có một người ăn nói bậy bạ huyên thuyên bị Thiên Lôi ân cần thăm hỏi, mong rằng chúng ta nói năng đi đứng cẩn thận.”
Trương Ngọc, Lý Vũ Hanh cười ha hả, biết rõ Địch Thanh nói giỡn, ôm lấy bả vai Địch Thanh đi về phía đại nội Tây Hoa môn. Tuy rằng Địch Thanh võ công không tốt, không có cách nào dùng lực được, nhưng hắn là người ngay thẳng phóng khoáng, làm việc trượng nghĩa, nên hai người cũng không coi thường hắn.
Ba người theo đường cái đi tới Tây Giác lâu, chỉ thấy dọc đường sầm uất, bọn họ phụ trách an toàn đoạn đường này cả một thời gian dài, người bán hàng rong hai bên đường đã sớm quen thuộc. Ven đường có một phụ nhân nhiệt tình bắt chuyện: “Ba vị quan nhân, có một mẻ bánh bao mới ra lò, có muốn tới thử vài cái không?” Dân chúng kinh thành đều gọi là người đương sai và nha dịch đều là quan nhân, phụ nhân này họ Vương, bày quầy bán bánh trên phố đã lâu, bánh bao bán ở con đường này rất có danh tiếng.
Địch Thanh đưa tới mười hai văn tiền rồi cầm lấy sáu cái bánh bao, cười nói: “Vương đại tẩu, dạo này ở đây có người nào khả nghi không?”
“Có đó.” Vương đại tẩu nhận lấy tiền, cười nói: “Ngài rất khả nghi đó, lớn như vậy rồi mà ngay cả một người vợ cũng không có, có muốn đại tẩu giới thiệu cho ngươi một người khuê nữ không?” Người dân bày quầy hàng xung quanh đều cười thiện chí. Địch Thanh có chút xấu hổ, cười nói: “Đại tẩu đừng nói đùa mà.” Nói xong, hắn lôi kéo hai người Trương Ngọc nhanh như chớp chạy về phía bắc, Trương Ngọc bên cạnh nói: “Địch Thanh, ngươi không phải là kẻ trộm thì chạy cái gì? Nhắc tới mới thấy cuộc đời thực sự không công bằng, ta quan chức so với ngươi thì cao hơn, người cũng đẹp trai hơn ngươi, so với ngươi còn thông minh hơn, vì sao người khác bao giờ cũng giới thiệu khuê nữ cho ngươi mà không giới thiệu cho ta?”
Lý Vũ Hanh nói: “Nhà Vương đại tẩu có con ngựa cái chưa gả đi, ngươi suy nghĩ thử xem?” Gã nhắm gương mặt Trương Ngọc mà nói.
Trương Ngọc lấy chân đá một cái, cười mắng: “Đồ chết tiệt, ngươi lo cho bản thân mình đi. Ta nghe nói gần đây có sư tử Thổ Phiên rất có địa vị tìm chồng, rất xứng với ngươi, bây giờ qua đó cầu hôn vẫn còn kịp đó.” Hai người cùng phá lên cười nắc nẻ.
Địch Thanh cụt hứng nói: “Làm việc đi.” Hắn không biết vì sao lại nghĩ đến người con gái dịu dàng kia, khó tránh khỏi cảm thấy chán nản.
Ba người đi tới gần Tây Hoa môn, tìm đại một bậc thang ngồi xuống, nhìn chằm chằm Tây Hoa môn đến ngẩn ngơ.
Qua khỏi Tây Hoa môn chính là hoàng cung đại nội, là nơi trọng thần triều đình làm việc và là chỗ ở của hoàng đế, hoàng hậu. Loại người như bọn họ, mặc dù ở kinh thành đã nhiều năm, nhưng ngay cả mặt mũi hoàng đế cũng chưa từng thấy qua lần nào.
Lý Vũ Hanh nói: “Địch Thanh, ta nói cho ngươi một bí mật, nhưng ngươi đừng nói cho người khác.”
Địch Thanh uể oải nói: “Có phải là Đông Hoa môn sinh ra nhiều Trạng Nguyên, Tây Hoa môn sinh ra nhiều mỹ nữ hay không?”
Lý Vũ Hanh làm ra vẻ rất ngạc nhiên nói: “Hóa ra ngươi sớm đã biết rồi.”
Địch Thanh lầm bầm nói: “Ngươi nói liên tục mấy năm nay, cho dù là người điếc, hơn phân nửa cũng đều biết hết rồi.” Mỗi lần mở khoa cử, xong lượt thi Đình thì tên của ba người Trạng Nguyên, Bảng Nhãn, Thám Hoa đều được xướng lên từ phía Đông Hoa môn, nổi danh thiên hạ. Đông chủ dương, Tây chủ âm, tương tự thì Tây Hoa môn lại là nơi hoàng cung nội quyến thường lui tới. Nếu như phi tần có địa vị qua đời, quan tài chắc chắn là từ Tây Hoa môn mà ra, phương hiển tôn quý. Loại cấp bậc như bọn người Địch Thanh thì cả đời cũng khó mà đi vào được hai cửa Đông Hoa và Tây Hoa, mỗi lần khi Lý Vũ Hanh đến nơi đây làm đương sai đều không nhịn được mà đem cái “bí mật” kia nói ra một lần.
Lúc này, có một cỗ xe ngựa từ cuối đường chạy nhanh về phía Tây Hoa môn, xe ngựa này mành che làm từ châu ngọc, dây cương khảm ngọc, yên ngựa chạm trổ hoa văn, quả thực là lộng lẫy khác thường. Trương Ngọc đột nhiên thấp giọng nói: “Thực ra Tây Hoa môn không chỉ sinh ra mỹ nữ, mà còn sinh ra một thứ đồ.”
Lý Vũ Hanh khó hiểu nói: “Là thứ đồ gì vậy?”
Trương Ngọc trào phúng nói: “Còn sinh ra đám thái giám chết bầm.”
Lý Vũ Hanh nhịn không được vừa cười, vừa nhỏ giọng nói: “Thái giám cũng không phải là thứ gì.”
Địch Thanh bên cạnh nói: “Các ngươi cũng không sợ bị người khác nghe thấy sao? Cái tên thái giám này nếu như biết được các ngươi bàn tán, nói cho thái hậu nghe, truy ra gốc rễ, nói không chừng các ngươi bị tịch biên gia sản, chém đầu cả nhà đấy.”
Trương Ngọc lạnh lùng nói: “Ta cái gì cũng sợ, chỉ không sợ bị tịch biên gia sản chém đầu cả nhà. Cả nhà ta cũng chỉ có một người, cả nhà tịch thu tài sản cũng chỉ một cái đầu. Tên thái giám chết bầm này, mỗi lần nhìn thấy xe của hắn, ta đều muốn chửi một trận.”
Lý Vũ Hanh than thở: “Nhưng mà cái tên thái giám chết bầm này chẳng những không bị ngươi chửi chết mà hiện giờ còn trở thành người tin cậy bậc nhất của thái hậu. Hô mưa gọi gió, không gì không làm được. Đáng tiếc … đường đường là Xu Mật sứ Tào Lợi Dụng cũng đấu không lại tên thái giám này, lại bị hắn lập mưu hãm hại đến chết.”
Hóa ra người ngồi bên trong xe ngựa xa hoa kia chính là đệ nhất thái giám trong cung La Sùng Huân.
Đại Tống tuy có tổ tông gia pháp, thái giám bên ngoại không được chuyên chính (1) nhưng bây giờ hoàng đế vẫn không đích thân xử lý quốc sự một mình mà muốn thái hậu giúp đỡ. Tên La Sùng Huân này mặc dù không có năng lực gì nhưng rất được thái hậu tán thưởng, ỷ vào uy nghiêm của thái hậu nên rất có quyền thế. Đã làm thái giám thì không còn “làm ăn” gì được (ND: tội lỗi, mình vẫn đang để tâm rất thuần khiết), nên bọn họ chẳng tham tiền thì cũng hám quyền. Nhiều thái giám trong cung sẽ tranh thủ kiếm cho người thân của mình một chức quan, nhưng Xu Mật sứ Tào Lợi Dụng tính tình cương trực ghét dua nịnh, nhiều lần cự tuyệt thỉnh cầu trong cung, mới khiến cho La Sùng Huân ghi hận trong lòng. Cuối cùng đến một ngày, hắn lấy cớ cháu trai Tào Lợi Dụng phạm sai lầm, y bẩm lên thái hậu, thái hậu thấy thế giận dữ, trừng phạt nghiêm khắc Tào Lợi Dụng. Đường đường là Xu Mật sứ, người trong hai phủ, mà lại bị cách chức đuổi ra khỏi kinh thành.
La Sùng Huân vẫn không chịu buông tha Tào Lợi Dụng, lại tìm người bịa đặt tội danh của Tào Lợi Dụng. Tào Lợi Dụng còn đang trên đường cách chức thì lại bị đày tới Phòng Châu, người phụ trách áp giải Tào Lợi Dụng trước đây chính là thái giám Dương Hoài Mẫn, mà ai cũng đều biết rằng Dương Hoài Mẫn và La Sùng Huân vốn là cá mè một lứa. Tào Lợi Dụng bị hoạn quan này hãm hại, cuối cùng chết thảm trên đường đi lúc đầu xuân.
Hòa ước Thiền Uyên năm đó, duy trì mấy chục năm năm bình an cho Đại Tống, mà người không màng đến sinh tử khi đó, không chút do dự đi sứ Khiết Đan chính là Tào Lợi Dụng. Tào Lợi Dụng đang ở hang hùm, nhưng lẫm liệt không sợ hãi, tấc đất cũng không đồng ý nhường, tuy rằng cuối cùng vẫn phải dâng vàng cầu hòa nhưng ở trong mắt người dân kinh thành, người này quả thật là đại công thần, bởi vậy người trong kinh thành cực kỳ căm ghét La Sùng Huân và Dương Hoài, Trương Ngọc cũng không ngoại lệ.
Lý Vũ Hanh bùi ngùi nói: “Đáng tiếc là thái hậu không phân biệt được đúng sai, trước đây không triệu hồi Khấu lão về chủ trì triều chính, cho tới bây giờ lại để hoạn quan hãm hại trung thần, triều cương không vượng rồi.” Khấu lão mà Lý Vũ Hanh nói chính là Khấu Chuẩn, người này ngay thẳng nổi tiếng thiên hạ, nhưng mà Lưu thái hậu sau khi nắm quyền thì trước sau không cần Khấu Chuẩn, Khấu Chuẩn mấy năm trước đã qua đời làm cho người trong thiên hạ phải thở dài than thở.
Trương Ngọc cười lạnh nói: “Ngươi cho là thái hậu thực sự hồ đồ sao? Vậy thì ngươi sai hoàn toàn rồi!”
Lý Vũ Hanh ngẩn ra, hỏi: “Bà ta trọng dụng hoạn quan, bức tử trọng thần, để cho người trung thành và tận tâm như Khấu lão không dùng đến, chẳng lẽ không phải mắt mù tai điếc sao?”
Địch Thanh thấy hai người càng nói càng không kiêng nể gì cả, vội vàng nói lảng đi: “Ê, Ăn bánh bao nè… A, khuôn mặt hai người kia hình như ta chưa thấy bao giờ qua?” Hắn vì muốn chuyển chú ý của hai người Trương Ngọc nên đưa tay chỉ về phía trước, chẳng ngờ quả nhiên có hai người cử chỉ hơi khác lạ, người thường nhìn thấy xe ngựa của La Sùng Huân đi ngang qua thì hơn phân nửa sẽ lùi về bên đường, nhưng hai người này không chỉ lùi đến ven đường mà còn quay mặt đi nhìn vào vách tường.
Chờ sau khi La Sùng Huân đi qua, hai người này thỉnh thoảng lại lén lút nhìn xung quanh cỗ xe kia.
Trương Ngọc bỗng nhiên đứng lên nói: “Đúng là khả nghi, đi hỏi một chút.” Hắn không có để ý hai người kia từ đại nội đi ra, hay là muốn đi vào đại nội, nhưng mà có chức trách trong người thì vẫn phải tra hỏi một phen.
Ba người đi lại gần hai người đó, thấy trong đó có một người vóc dáng trung bình, tuổi tác chưa cao, trên mặt hình như có dính tro bụi nhưng đôi tay cực kỳ trắng trẻo mềm mại. Người còn lại có khuôn mặt mập trắng, lông mày đậm, không có ria mép. Thấy ba cấm quân đi tới, sắc mặt người mập trắng khẽ biến, vừa muốn nói cái gì nhưng lại bị người thanh niên chặn lại, hai người liền quay về phía đường cái Tây Giác lâu đi đến. Trương Ngọc ngăn ở trước hai người này, hét lớn: “Lấm la lấm lét làm cái gì đó? Tên họ, quê quán, hiện nay đang ở đâu? Thân thích là người phương nào? Mau thành thật khai báo!”
“Lớn mật.” Người mập trắng quát to, giọng nói chói tai phẫn nộ.
Người thanh niên vội vàng nói với người mập trắng: “Đừng để … lộ ra. Thật … kỳ cục.” Hắn nói rất kỳ quái làm cho bọn người Trương Ngọc như rơi vào trong mây mù. Nhưng trong lòng Địch Thanh hơi giật mình, thầm nghĩ giọng nói người này làm sao mà nghe quen quen thế.
Trương Ngọc nói: “Còn không muốn lộ ra? Các ngươi làm kẻ trộm ư, sao mà cẩn thận như vậy? Mau mau khai ra họ tên.”
Trong mắt người thanh niên hiện lên vẻ cổ quái, nói: “Ta muốn đi Đại Tướng Quốc Tự cầu phật, các ngươi … đừng có nhiều chuyện.”
Trương Ngọc vừa bực mình vừa buồn cười, nói rằng: “Ngươi cầu phật giỏi lắm? Con mẹ nó, ta hỏi ngươi tên họ, ngươi nói cái con khỉ gì vậy?”
Người thanh niên nghe lời tục tĩu thốt ra từ miệng Trương Ngọc, con mắt trừng lên, rất có uy nộ.
Địch Thanh nghe được hai chữ cầu phật thì trong lòng khẽ động, nhớ tới tối hôm qua ở Đại Tướng Quốc Tự hình như có nghe qua giọng nói này. Người này lúc đó không phải cùng chủ trì Đại Tướng Quốc Tự luận kinh phật sao? Cúi đầu xuống phía dưới, Địch Thanh nhìn thấy dưới chân hắn ta có mang một đôi giày, mặc dù đã thay đổi kiểu dáng, nhưng chắc chắn là do Ngũ Hồ Xuân may. Đinh ninh ý nghĩ trong đầu, hắn liền lôi Trương Ngọc sang một bên nói: “Hai người này không có gì khả nghi đâu, thả cho bọn họ đi đi.” Địch Thanh thầm nghĩ, “Người có thể cùng chủ trì Đại Tướng Quốc Tự luận kinh phật thì không phải là kẻ xấu, nếu như là người cao quý thì không cần phải … mạo phạm.”
Trương Ngọc thấy Địch Thanh nháy mắt với hắn lia lịa, ho khan một tiếng nói: “Vậy các ngươi đi đi. Gần đây Đại Tướng Quốc Tự tạm thời không tiếp khách lạ, các ngươi cũng không nên đi tới đó.”
Người thanh niên mỉm cười nói: “Cám ơn đã nhắc nhở.” Hắn hướng về phía Địch Thanh nháy mắt một cái, gật đầu rồi bước nhanh đi. Người trung niên mập mạp kia vội vàng đi theo sát, cái mông lắc qua lắc lại giống như một con vịt.
Trương Ngọc chờ hai người kia đi rồi mới nói với Địch Thanh: “Ngươi biết bọn họ sao?”
Địch Thanh lắc đầu nói: “Mặc dù không nhận ra bọn họ nhưng dù sao ngươi làm cấm quân đã nhiều năm, nhìn đôi giầy kia không phải đã bằng bổng lộc một năm của ngươi sao. Người này không phú thì cũng quý, ngươi làm ầm ĩ với hắn thì được gì chứ?”
Trương Ngọc cười hắc hắc: “Ta chính là thấy hắn phú quý cho nên mới mượn cớ chặn hắn lại. Chúng ta làm việc tận tuỵ thì có cái gì đáng trách?”
Địch Thanh lắc đầu, ngồi xổm xuống gặm cái bánh bao đã nguội, không nhịn được liếc mắt nhìn về hướng người thanh niên rời đi, lại nghĩ tới sự việc đêm qua, nhớ tới Đa Văn Thiên Vương nên lại nghĩ tới Ngũ Long, không kìm lòng nổi mà sờ soạng trước ngực, hắc cầu cứng rắn kia vẫn còn ở đây.
Một ngày vô sự, Địch Thanh báo cáo kết quả công tác xong xuôi, dùng qua bữa cơm tối, liền trở lại phòng mình, móc hắc cầu đó ra, lật qua lật lại mà kiểm tra hết nửa ngày nhưng vẫn hoàn toàn không thu hoạch được cái gì cả. Cuối cùng, hắn nảy sinh ra ý định ác độc là lấy cái búa sắt đập thử xem, nhưng chỉ nghe được hắc cầu truyền ngược lại âm thanh không có ý nghĩa, đành thờ dài để hắc cầu lại trên bàn, nhìn chằm chằm đến nửa đêm.
Hắc cầu vẫn là hắc cầu, không biến thành lụa hồng mà cũng không biến thành trứng vàng.
Địch Thanh nhìn chòng chọc đến nỗi hai con ngươi cay cay, thầm nghĩ chẳng lẽ sáng nay thực sự là nằm mơ tỉnh giấc? Đã đến đêm khuya, Địch Thanh hết sức mệt mỏi bèn dựa vào vách tường nặng nề thiếp đi, nhưng mà vẫn không dám ngủ, trở mình mà tỉnh lại mấy lần.
Địch Thanh mỗi lần tỉnh lại đều liếc mắt nhìn về phía hắc cầu, thấy nó vẫn thâm trầm trong bóng đêm, yên tĩnh nói không nên lời. Có một lần tỉnh lại, đột nhiên hắn cảm thấy hơi buồn cười, thầm nghĩ mình thực sự cho rằng nó là vật sống hay sao? Chẳng qua nó chỉ là là ảo giác, mình lại tưởng là thật mà thôi. Vừa nghĩ tới đây, Địch Thanh thả lỏng tâm tư, ngủ thiếp đi lần nữa, hắn ngủ thẳng đến khi gà trống gáy ba tiếng, mặt trời đỏ đã mọc lên ở hướng đông.
Bên tai nghe thấy tiếng gáy, Địch Thanh thầm nghĩ rằng trời đã sáng. Hắn còn chưa kịp mở mắt thì thân hình đột nhiên rung lên, bởi vì dù cho không mở mắt thì trước mắt hắn cũng là từng vạch hồng quang khác xa bình thường.
Tình cảnh này cũng giống như tối hôm qua vậy!
Trong lòng Địch Thanh chịu đựng chấn động, chậm rãi mở hai mắt ra, khoảnh khắc này, trong lòng hắn kinh hãi khó nói nên lời. Ánh sáng mặt trời từ màn cửa sổ bằng lụa mỏng bắn đến, màu vàng rực rỡ lóa mắt, nhưng càng lóa mắt hơn lại là một dải lụa hồng trước mắt. Dải lụa hồng này cực kỳ lộng lẫy, màu sắc rực rỡ tươi đẹp, từ bên trái tường kéo dài tới tận bên phải tường, phấp phới chuyển động. Mà dải lụa hồng này lại lấy hắc cầu làm gốc. Loại hiện tượng này cực kỳ quái dị, giống như là hắc cầu nhả tơ bó thành dải lụa rộng lớn.
Khi Địch Thanh thấy dải lụa hồng này phấp phới bay thì càng kinh hãi không hiểu gì, không biết nó rốt cuộc là vật gì, vì sao bỗng dưng lại xuất hiện? Hắn không la hét, mà cũng quên mất la hét, chỉ nhìn chằm chằm dải lụa hồng kia, thấy trên mặt nó có ánh sáng di động, lại qua chốc lát, dải lụa hồng vừa di chuyển đã bay về phía hắn, Địch Thanh mặc dù không muốn hét, nhưng không còn nhịn được nữa phát ra tiếng rống động trời.
Không phải lụa hồng, mà là con rồng!
Con rồng khổng lồ màu đỏ thẫm.
Lụa hồng biến thành rồng lớn, ngay lúc Địch Thanh thét lên sợ hãi thì nó nhào tới trước người Địch Thanh. Địch Thanh nhảy bật dậy, vội vàng lui về phía sau, nhưng quên mất phía sau chính là tường, “Phanh” một tiếng đụng vào vách tường, nóc nhà rung động, sống lưng đau buốt. Ngay sau đó trong đầu Địch Thanh “Oanh” một tiếng, chỉ thấy hồng long này đã chui vào bên trong thân thể hắn rồi đột nhiên tan biến. Ánh sáng mặt trời trong phòng phục hồi như cũ, cái bàn cái giường vẫn như cũ nhưng cả người Địch Thanh đã mồ hôi đầm đìa, mí mắt bên trái càng không ngừng giật giật.
Qua một lúc lâu, Địch Thanh phục hồi tinh thần lại, trong lòng gào lên, “Không phải mộng, không phải nằm mơ, ta còn tỉnh táo.”
Hắn lúc này mới phát hiện mình đang đứng ở trên giường liền chậm rãi ngồi xuống, cảm thấy khát nước vô cùng, vội đi tới lấy một tách trà ở trên mặt bàn, chỗ đó còn có tách trà đã nguội mà tối hôm qua hắn chưa uống hết.
Nhưng tay phải hắn vừa chạm vào tách trà thì tách trà sứ men xanh cứng rắn đó lại vang lên tiếng “Sát”, đột nhiên vỡ tan tành. Địch Thanh giật mình, theo phản ứng bản năng mà đưa tay bắt lấy, nửa tách trà còn lại ở trên tay hắn cũng vỡ vụn như đất khô. Địch Thanh ngẩn ra, đưa tay vịn lấy cái bàn, nhưng không ngờ cái bàn này cũng vang lên tiếng “Răng rắc”, chân bàn đã gãy. Địch Thanh bất ngờ không kịp phản ứng, đặt mông ngồi bệt trên mảnh vỡ, nhìn chén bể bàn khuyết, ngây ngốc tại chỗ.
Địch Thanh lúc này vô cùng kinh ngạc, thầm nghĩ: “Làm sao mình lại có sức mạnh lớn như vậy?”
Sau khi tủy hải Địch Thanh bị thương, mặc dù không chết nhưng cây kim vẫn còn ở trong đầu. Thường ngày hắn làm việc và sinh hoạt chẳng khác gì mọi người, nhưng lại không có sức để làm việc nặng, chỉ cần hơi dùng lực mạnh thôi là sẽ đau đầu như búa nện, thậm chí hôn mê ngay tại chỗ.
Mấy năm nay, Địch Thanh vì bị bệnh tật đau đớn giày vò mà cả ý chí lẫn tinh thần cđều sa sút. Cũng may là tính tình hắn lạc quan, chẳng hề hận đời, ngược lại kết bạn với không ít người ở trong cấm quân doanh. Nhưng hắn bị ảnh hưởng của thương bệnh trong người, mấy lần Ma Khám đều không thể thể hiện, năm này tháng nọ không thăng chức được nên cũng khó tránh khỏi chán nản.
Nhưng bây giờ hắn bóp nát tách trà, lại đánh gãy bàn gỗ, cho dù hắn khỏe mạnh hoàn toàn như trước khi bị thương cũng không thể làm được hai việc này, đột nhiên hôm nay lại có sức mạnh này, rốt cuộc là do đâu?