Địch Thanh hoang mang không hiểu. Chàng cảm thấy mình như con thú bị nhốt trong lồng. Đây là cái lưới lớn đã được giăng ra từ trước, còn chàng là con cá lớn trong lưới ư?
Thậm chí Địch Thanh bắt đầu hoài nghi, hai đại Thiên Vương kia cũng không phải là phản đồ của Di Lặc giáo, mà giống như là người do Hạ Tùy bố trí mai phục sẵn, nếu không như vậy thì cớ sao Hạ Tùy lại quả quyết rằng chàng phải chết chứ? Nếu chàng mà chết đi rồi, thì chết vào trong tay giáo đồ Di Lặc giáo, sẽ không ai hoài nghi Hạ Tùy!
Lúc này, Địch Thanh vô cùng yếu ớt, chàng ngó thấy tay của Hạ Tùy và Khâu Minh Hào đè lên chuôi đao, trong lòng càng thêm sợ hãi. Trong gió lạnh, ba người nhìn nhau chăm chăm, trong ánh mắt ai cũng chứa đầy vẻ đề phòng. Rốt cuộc Hạ Tùy tiến lên một bước, cất tiếng hỏi:
– Địch Thanh, ngươi có phát hiện ra giáo đồ của Di Lặc giáo không?
Tâm tư rối bời, Địch Thanh đáp:
– Có hai tên…
Khâu Minh Hào lạnh lùng chen vào:
– Ngươi đừng có nói phét, nếu đúng là Tăng Trưởng và Trì Quốc ra tay thì sao ngươi còn có thể đứng ở nơi này?
Địch Thanh giật mình, hỏi ngược lại:
– Tôi không có nói là hai kẻ đó! Sao Khâu bộ đầu lại biết được là ai ra tay chứ?
Trong bóng đêm, sắc mặt Khâu Minh Hào thoáng thay đổi, hắn sầm mặt nạt:
– Người mà chúng ta muốn bắt chính là hai kẻ này, lẽ nào trong Tào phủ còn có người khác ra tay ư?
Địch Thanh rất căm phẫn. Song chàng biết biết mình vừa mới dạo một chuyến quỷ môn quan trở về, liền châm biếm:
– Tăng Trưởng Thiên Vương bị tôi giết chết, có Trương Ngọc và Lý Vũ Hanh tận mắt nhìn thấy. Nếu các người không tin, sao không đến đó mà xem?
Khâu Minh Hào lại biến sắc, tay cầm đao nổi gân xanh. Hạ Tùy lui về phía sau một bước, hét lên thất thanh:
– Ngươi làm sao có thể giết được Tăng Trưởng Thiên Vương chứ?
Địch Thanh làm ra vẻ ung dung nói:
– Hạ chỉ huy tìm tại hạ đến đây, không phải muốn tại hạ bắt giặc sao? Tại hạ may mắn không phụ lòng tin tưởng của chỉ huy.
Khâu Minh Hào nhìn Địch Thanh từ trên xuống dưới, chậm rãi nói:
– Có vẻ như ngươi bị thương không nhẹ!
Hắn lườm Hạ Tùy, ngầm hỏi ý kiến.
Địch Thanh rùng mình. Tuy lúc này chàng rất muốn nằm xuống nghỉ ngơi, nhưng chàng vẫn cố tỏ ra bình tĩnh:
– Chút tổn thương nhỏ nhoi này thì nhằm nhò gì.
Chàng sợ Khâu Minh Hào và Hạ Tùy nhận ra chàng đã đuối sức thì sẽ lập tức vung đao giết chàng.
Ánh mắt Khâu Minh Hào hiện rõ sát tâm, gã vừa định tiến lên thì bỗng có tiếng bước chân từ đằng xa truyền đến, một người chạy rất nhanh đến nói:
– Hạ chỉ huy, không phát hiện tung tích của bọn giặc ở đâu cả!
Khâu Minh Hào thở ra một hơi rồi buông tay cầm đao ra. Người vừa mới tới là Phó đô đầu Vương Khuê của quân Kiêu Vũ. Hạ Tùy chậm rãi lắc đầu, cũng buông lỏng tay cầm đao ra, cau mày hỏi:
– Vậy thì kỳ quái thật! Vừa rồi rõ ràng ta còn thấy dấu vết của bọn chúng. Vương Khuê, mấy nơi khác thì sao?
Hắn nháy mắt với Khâu Minh Hào. Khâu Minh Hào hiểu ý nói:
– Để ta tới chỗ chuồng ngựa kiểm tra.
Vương Khuê lắc đầu đáp:
– Mấy nơi kia đều là kế nghi binh do bọn giặc cố ý bố trí, cũng không có thấy tên giặc nào xuất hiện hết.
Rồi chợt thấy trên người Địch Thanh đầy máu tươi, Vương Khuê kinh ngạc hỏi:
– Địch Thanh, ngươi đánh nhau với bọn chúng à?
Địch Thanh gật đầu đồng thời nhận ra Vương Khuê và Hạ Tùy không phải cùng một giuộc. Vương Khuê đến thật đúng lúc, cứu cho chàng một mạng. Vương Khuê không nhịn được hỏi:
– Bọn chúng là ai?
– Là Tăng Trưởng Thiên Vương và Trì Quốc Thiên Vương của Di Lặc giáo.
Địch Thanh trả lời.
Vương Khuê ngạc nhiên hỏi:
– Bọn chúng không phải đã chết rồi ư? Người cần bắt lần này, chẳng lẽ là bọn chúng sao?
Vẻ mặt Hạ Tùy liền chuyển thành vẻ chế nhạo:
– Người chết biết đâu chừng sẽ sống lại.
Gã nhìn Địch Thanh đầy thâm ý rồi quay qua căn dặn:
– Vương Khuê, ngươi hãy theo ta đến chuồng ngựa tra xét. Nói không chừng còn có thể tìm được chút manh mối nào đó.
Vương Khuê định hỏi tiếp một số chuyện, nhưng nghe Hạ Tùy nói vậy thì đành phải nghe theo. Nhưng bỗng thấy Địch Thanh loạng choạng sắp ngã, hắn ân cần hỏi:
– Ngươi còn đi được không?
Địch Thanh cắn răng trả lời:
– Một chút tổn thương nhỏ thôi, chả thấm vào đâu.
Nghe thấy Địch Thanh trả lời thế, Vương Khuê mới cùng Hạ Tùy rời đi. Lúc này, Địch Thanh cũng đã phục hồi được chút sức lực, chàng không dám ở đây lâu nữa, vội vàng lảo đảo rời khỏi Tào phủ, cả người toát đầy mồ hôi.
Đột nhiên trong Tào phủ vang lên một loạt tiếng “cộc cộc”, tiếp đó có một đám người ùa vào xách nước cứu hỏa. Địch Thanh quay đầu nhìn lại, thấy phía chuồng ngựa lửa cháy ngút trời thì dường như nghĩ đến cái gì đó, miệng nở nụ cười khẩy. Địch Thanh lo cho thương thế của Trương Ngọc, lại thấy nơi đây không thể ở lâu, vội vàng chạy về quân doanh. Chàng bị thương quả thật không nhẹ, dọc đường phải nghỉ ngơi hai lần nữa mới về tới quân doanh.
Vừa vào quân doanh, Triệu Luật liền nghênh đón:
– Địch Thanh, ngươi không sao chứ?
Ngực vô cùng đau nhức, nhưng chàng vẫn không quan tâm tới bản thân mà vội hỏi:
– Trương Ngọc đâu?
Triệu Luật cau mày nói:
– Hắn vẫn còn hôn mê chưa tỉnh. Vận số của các ngươi không tốt, dường như chỉ có nhóm các ngươi là gặp địch.
Địch Thanh âm thầm cười khẩy và càng thêm chắc chắn đây là cái bẫy do Hạ Tùy bố trí ra. Người ngoài thì mơ hồ chứ người trong cuộc như Địch Thanh lại thấy chuyện đã rất rõ ràng. Hạ Tùy muốn giết chàng nên mới có hai lần ‘tình cờ’ gặp gỡ này, và lần nào cũng đều mượn cớ điều chàng đến Tào phủ. Các nơi khác không thấy kẻ địch đâu, chỉ riêng chuồng ngựa là có hai tên sát thủ, không cần hỏi cũng biết, sát thủ đó đã được chuẩn bị sẵn cho chàng đấy. Dĩ nhiên, các nơi khác cũng do Hạ Tùy cố ý bày trận nghi binh. Hạ Tùy giết Địch Thanh rồi thì có thể đổ hết tội cho bọn Di Lặc giáo. Hạ Tùy tính toán rất khéo, nhưng hắn nghìn tính vạn tính cũng không ngờ rằng Địch Thanh lại không chết! Hạ Tùy càng không tính được dù Địch Thanh cách gã rất xa nhưng vẫn có thể nghe thấy được cuộc trò chuyện giữa hắn và Khâu Minh Hào.
Địch Thanh tin chắc rằng bản thân nghe được cuộc trò chuyện ấy, nhưng vẫn còn chút ngờ vực. Vì sao chàng có thể nghe được những âm thanh đó? Vì sao Hạ Tùy muốn giết chàng? Nhớ tới ánh mắt âm trầm lạnh lẽo của Hạ Tùy trước khi đi, Địch Thanh siết chặt nấm đấm. Chàng đang đuổi theo những suy nghĩ trong đầu thì đã đến trước giường Trương Ngọc.
Trương Ngọc nhắm chặt hai mắt. Lý Vũ Hanh đứng chăm sóc ở bên cạnh. Hắn thấy Địch Thanh tới đây thì lập tức đứng dậy:
– Địch Thanh, Trương Ngọc bị thương rất nặng, đại phu nói hắn chưa chắc có thể tỉnh lại….
Địch Thanh nhìn khuôn mặt tái nhợt của Trương Ngọc, lẩm bẩm:
– Hắn chưa chắc có thể tỉnh lại?
Sự phẫn nộ trong lòng chàng càng thêm sâu đậm. Chàng bỗng nhớ tới chuyện đại ca bị đánh trước đây.
Lý Vũ Hanh rất hổ thẹn, mất hồn lạc phách lui về phía sau hai bước, ấp úng nói:
– Ta….Ta.. vô dụng…
Địch Thanh thở dài, vỗ vỗ vai Lý Vũ Hanh:
– Ngươi….
Địch Thanh cũng không biết nên an ủi gã thế nào đây. Hiện giờ lòng chàng cũng rất bất mãn với Lý Vũ Hanh, nhưng thấy gã như thế thì không nỡ nói lời oán trách. Thật lâu sau, Địch Thanh mới nói:
– Ngươi chăm sóc Trương Ngọc cho tốt, ta ra ngoài một lát.
Lý Vũ Hanh ngơ ngác gật đầu. Địch Thanh nhanh chóng rời đi. Nhưng chàng đi chưa được bao xa thì dừng lại, ngồi xuống ngây ngẩn một chỗ. Cho đến khi phía đông đọng sương thì Địch Thanh mới mệt mỏi vươn người đứng dậy quay về quân doanh. Chàng về tới nơi thì Trương Ngọc vẫn chưa tỉnh lại.
Triệu Luật đi tới thấy Trương Ngọc như vậy, cũng phải lắc đầu cảm thán. Hắn biết Địch Thanh bị thương nên bảo Địch Thanh về nhà nghỉ ngơi mấy ngày, trong mấy ngày này không cần phải đi tuần. Địch Thanh gật đầu đáp ứng. Trên đường thả bộ về nhà, lửa giận trong lòng chàng dần dần bốc cao, trong đầu chỉ có một suy nghĩ: “Thù này phải trả!”
Chàng nghĩ cả đêm, rồi cũng thông suốt. Giữa chàng và Hạ Tùy, chỉ có một người có thể sống! Chuyện này dù cho chàng giả bộ không biết gì thì Hạ Tùy nhất định cũng không bỏ qua. Hạ Tùy giết chàng một lần không thành, nhất định còn muốn giết tiếp.
Địch Thanh là chàng trai nhiệt huyết, làm việc coi trọng ân oán rõ ràng. Tuy mấy năm nay tinh thần sa sút, nhưng tính cách vẫn không thay đổi. Hạ Tùy muốn giết chàng thì chàng sẽ ăn miếng trả miếng, điều này là đạo lý hiển nhiên. Khi suy nghĩ về việc báo thù, Địch Thanh quyết định không cần nói chuyện này cho Quách đại ca hay, cũng tuyệt không thể liên lụy huynh ấy! Giết Hạ Tùy, nếu may mắn không chết thì từ nay về sau chàng sẽ lang bạt nơi chân trời góc bể. Nếu như chết đi thì ít nhất cũng phải mạng đổi mạng.
Khóe miệng khẽ nở nụ cười cay đắng, Địch Thanh không ngờ rằng trước đây không phải rơi vào cảnh trốn chạy, nhưng mấy năm sau, chàng vẫn không tránh khỏi có kết cục này. Chẳng lẽ đây là số mệnh sao?
Vừa nghĩ tới cảnh phải lưu lạc nơi chân trời góc bể, tim chàng chợt nhói đau. Trong đầu chàng chợt hiện lên hình ảnh một khuôn mặt thanh lệ thoát tục đang buồn bã. Lần gặp gỡ này hẳn là không có kết quả, chẳng lẽ đây cũng là số mệnh sao?
Địch Thanh lắc lắc đầu, cố xua đi hình ảnh ấy. Chàng chợt cảm thấy ngực mình đau nhức kịch liệt, vạch vạt áo trước ngực ra thì thấy phần ngực hơi lõm vào và còn hằn hai chữ “Ngũ Long”. Chàng chợt ngộ ra. Hóa ra khi cán chĩa sắt đâm vào ngực thì lại trúng ngay vào hắc cầu. Nếu không nhờ hắc cầu này chặn lại thì e rằng chàng đã bị một chĩa kia đâm chết từ lâu.
Trong lòng chợt động, “Lúc ở Tào phủ, thể lực của mình chẳng những hồi phục trong nháy mắt, mà còn dũng mãnh hơn trước mười lần, lẽ nào cũng có liên quan tới vật này ư? Nếu không thì dựa vào điều gì để giải thích việc mình có thể đánh chết được Tăng Trưởng Thiên Vương chứ?” Địch Thanh thầm nghĩ.
Địch Thanh nhìn Ngũ Long, Ngũ Long âm u, không có bất cứ động tĩnh gì.
Hồng long, Kim long, Thiên Vương, Di Lặc… Đủ thứ chuyện kỳ quái nườm nượp kéo đến. Địch Thanh suy nghĩ một lúc lâu nhưng vẫn không tìm ra được điểm mấu chốt. Cuối cùng chàng lại cất Ngũ Long vào trong ngực rồi rời khỏi quân doanh. Tuy chàng có ý định giết Hạ Tùy, nhưng giết như thế nào thì trong lúc nhất thời vẫn chưa thể nghĩ ra.
Trong lòng rầu rĩ, Địch Thanh ngẩng đầu lên thì trông thấy có một quán rượu, chàng quyết định đi vào uống chút rượu giải sầu. Hôm nay kinh thành làm lễ tế tự, dân chúng trong tửu lâu bàn luận xôn xao. Có rất nhiều người dân đã đến gần cửa Chu Tước từ sớm để chờ xem náo nhiệt.
Địch Thanh ngồi gần cửa sổ, nhìn ra ngoài, cả kinh thành mênh mông bát ngát, tuyết đã dừng nhưng gió vẫn thổi mạnh. Ngày tế tự, khí trời vô cùng khắc nghiệt. Nhưng trong khí trời khắc nghiệt này, có một cây mai đỏ tươi vẫn quật cường vươn mình trong gió mạnh, nổi bật trên nền tuyết trắng xoá.
Chàng nhìn cây mai đỏ, đột nhiên nhớ tới tám chữ “Vị kiến quân tử, ưu tâm xung xung”. Dù cho cả đời phiêu dạt nơi chân trời góc bể chàng cũng không thể nào quên đã từng gặp được nàng ở Biện Kinh, mặc dù ngay cả tên nàng chàng vẫn chưa biết. Nhưng nàng thì sao? Nhiều năm sau, nàng có còn nhớ hay nàng sẽ quên! Địch Thanh nghĩ tới đây, trong lòng lại cảm thấy chua xót. Chàng ngẩn ngơ nhìn cây mai đỏ, giống như gã đần.
Đúng lúc này, ngoài quán rượu có mấy người đi vào, lớn tiếng nói:
– Tiểu nhị, mang đến cho chúng ta mấy chén rượu làm ấm người đi.
Địch Thanh liếc nhìn qua, thấy đám người Lệ Chiến, Tống Thập Ngũ đang đi vào. Đám Lệ Chiến đều là người của quân Kiêu Kỵ, cũng chính là thuộc hạ của Hạ Tùy. Lúc vây công Tào phủ, bọn chúng đều ở bên ngoài. Địch Thanh nhìn thấy bọn chúng thì cảm thấy chán ghét nên quay đầu sang chỗ khác. Đám Lệ Chiến cũng không phát hiện ra Địch Thanh, chúng ngồi xuống rồi chụm đầu nói chuyện, Tống Thập Ngũ nói:
– Tranh thủ đang lúc rãnh rỗi, các vị huynh đệ mau mau làm một vài chén, lát nữa còn phải đi tuần đấy.
Lệ Chiến nói:
– Gấp làm gì? Trong ngoài kinh thành đều có mấy chục vạn cấm quân đóng giữ, chúng ta chỉ canh giữ ngoài thành. Ngươi yên tâm đi, không xảy ra sai sót gì đâu.
Cao Đại Danh đắc ý nói:
– Cho dù có xảy ra sai sót thì sao chứ? Chúng ta đã vất vả cả ngày hôm qua rồi, hôm nay lại phải đi tuần, dù có là người sắt đi nữa cũng phải nghỉ ngơi chớ. Chúng ta uống chút rượu, thì có gì là to tát chứ?
Rượu vừa được đem lên, bọn chúng chưa kịp nhấp môi thì bên ngoài quán rượu có một người chạy vào nói:
– Các ngươi sao còn ở đây uống rượu hả? Hạ chỉ huy đang tìm các ngươi đấy, nhanh lên đi. Hạ chỉ huy nói, hôm nay đi tuần xong sẽ mời các ngươi đến đây nhậu một chầu.
Bọn Tống Thập Ngũ mừng rỡ nói:
– Thơm bơ thật, đêm nay chúng ta nhất định phải làm một bữa không say không về. Được rồi, vậy thì đi thôi.
Sau đó y quay sang gọi ông chủ quán rượu đến, hét lên:
– Tiền rượu này ghi sổ đi, đến tối rồi tính luôn một lượt.
Ông chủ quán rượu cười xòa nói:
– Chào mấy vị quan nhân, tiền rượu này… cứ để đó đi.
Từ trước đến nay, quân Kiêu Kỵ làm mưa làm gió ở kinh thành, ông chủ quán rượu chỉ cầu bọn chúng đừng gây rối, một ít tiền rượu này nào dám đòi chứ.
Chờ bọn người Tống Thập Ngũ rời đi, Địch Thanh rót đầy một chén rượu, khóe miệng nở nụ cười lạnh, lẩm bẩm nói:
– Đêm nay không say không về?
Chàng vẫn luôn lo nghĩ làm cách nào để thịt được Hạ Tùy. Giờ nghe vậy, chàng âm thầm tính toán, nếu như đêm nay bọn người Hạ Tùy uống say bí tỉ, vậy thì chàng có cơ hội ra tay rồi.
Địch Thanh nghĩ tới đây, trong lòng phấn chấn hẳn ra. Chàng ngẩng đầu nhìn cây mai đỏ đang rung động nổi bật trên nền tuyết trắng. Chàng bỗng thất thần, qua đêm nay, bất kể sống hay chết, e rằng cả đời này sẽ không còn gặp được nàng nữa. Địch Thanh sững người nhìn cây mai. Không biết qua bao lâu, chàng tính tiền rượu rồi lững thững đi đến ngõ Mạch Kiết.
Lúc này, triều đình đại tế, muôn người đều đổ xô ra đường. Tuy là ban ngày nhưng ngõ Mạch Kiết vẫn âm u và thanh vắng như ban đêm. Địch Thanh đến ngõ Mạch Kiết, gió thổi vù vù, tuyết trắng bay bay, hoa mai ngạo tuyết, nhưng người trong mộng thì không thấy đâu. Địch Thanh đứng ở trước gốc mai, thấy dưới tán cây có dấu chân ngổn ngang, dấu chân không chỉ của một người. Chàng cẩn thận tìm dấu chân nhỏ nhắn ấy, qua một lúc lâu, chàng chậm rãi ngồi xổm xuống, tiếp đó nhặt lên một cánh hoa tàn. Địch Thanh thầm nghĩ hoa đã tàn, chữ viết đã mất đi, tất cả mọi thứ đều đã là quá khứ.
Dù nghĩ như thế nhưng lòng chàng lại dâng trào đau thương, rút đao ra gạt bằng một mảnh đất tuyết. Chàng muốn để lại vài chữ cho nàng. Sau khi suy nghĩ một lúc, Địch Thanh chỉ viết được hai chữ “Bảo trọng”. Chàng ngẫm lại: “Có lẽ nàng cho rằng mình không tới, có lẽ nàng sẽ không thấy hai chữ này đâu. Thế nhưng… Mình biết mình nghĩ gì là được rồi, cần gì phải quan tâm tới nàng nghĩ gì làm chi?”
Chàng lại trầm ngâm, ngắm hai chữ trên mặt tuyết thật lâu. Sau đó, chàng đột nhiên ngửa mặt lên trời cười như điên dại, trong tiếng cười mang theo vẻ cô đơn hiu quạnh vô tận.
chàng xoay người định đi, nhưng nụ cười bỗng đanh lại trên môi, cả người run rẩy.
Chỉ thấy cô gái mà chàng trăm thương ngàn nhớ chẳng biết đã đứng trước mặt từ khi nào rồi. Mấy ngày không gặp, nàng vẫn xinh đẹp tuyệt thế như trước nhưng lại có chút tiều tụy. Khoảnh khắc trông thấy Địch Thanh, ánh mắt nàng ngời sáng nhưng không thể thốt lên lời nào.
Địch Thanh si ngốc nhìn nàng, trong khoảnh khắc này chàng không biết làm sao cho phải. Nàng nhìn Địch Thanh từ trên mặt xuống tới cổ tay rồi hoảng sợ la lên:
– Huynh bị thương?
Đến lúc này, Địch Thanh mới cảm thấy có chút đau đớn, không phải đau ở cổ tay đâu, mà là ở ngực. Chàng gượng cười nói:
– Những người như huynh đây, cả ngày đánh đấm, không bị thương mới là lạ.
Trong mắt nàng chợt hiện lên vẻ thương cảm. Nàng bước tới định băng bó vết thương cho chàng, nhưng Địch Thanh vội lùi về phía sau một bước nói:
– Không cần đâu, cám ơn cô.
Chàng đã quyết định phải giết Hạ Tùy, và sau đó chàng sẽ chạy trốn tới nơi chân trời xa xăm nên chỉ mong nàng hãy quên chàng đi. Chàng vốn định lấy chiếc khăn lụa bấy lâu nay vẫn cất giữ trong ngực ra trả lại cho nàng, nhằm cắt đứt lòng quan tâm của nàng. Chàng nhận ra nàng thích chàng, còn vì sao mà thích thì thật sự không biết. Nhưng chiếc khăn lụa này là vật duy nhất mà nàng trao cho chàng, sao nỡ trả lại cho được?
Cô gái thấy Địch Thanh bỗng trở nên lạnh lùng. Ánh mắt liền lộ vẻ kinh ngạc, nàng định hỏi gì đó nhưng khi cúi đầu xuống thì vừa vặn nhìn thấy hai chữ do đao khắc trên mặt đất kia.
Cô gái không nói, cũng không ngẩng đầu lên. Địch Thanh nhìn thấy hai giọt nước nhiễu xuống mặt tuyết, lộ ra hai điểm mờ nhạt, gió thổi qua không dấu vết, nhưng nước mắt chảy qua thì sao chứ? Đau lòng thấu xương. Thấy nàng đau lòng, chàng rất áy náy. Vốn định an ủi vài câu, song chàng biết nếu làm vậy thì chỉ thêm khó xử, nên kiên quyết nói:
– Trời lạnh, cô mau về đi.
Thanh âm này lạnh lùng như băng nhưng ẩn chứa sự ân cần như lửa.
Cô gái buồn bã hỏi:
– Huynh muốn đi ư?
– Ừm.
Cô gái hỏi tiếp:
– Không bao giờ trở về nữa?
– Đúng. Mượn đường, xin tránh giùm cho.
Kiềm chế giọt lệ chực trào ra, nàng bước tránh sang bên. Rồi đột nhiên nàng ngẩng đầu lên, nhìn thấy vầng trán Địch Thanh chứa đựng nỗi ưu sầu vô hạn thì chợt hiểu ra, bước chân vì thế trượt đi, nàng lảo đảo sắp ngã đến nơi. Địch Thanh thấy thế vội vàng vươn tay đỡ lấy. Nắm chặt cổ tay nhỏ bé, mịn màng, lạnh lẽo trong tay, thân thể chàng chợt run lên. Sau khi đứng vững, nàng nhỏ giọng nói:
– Cám ơn. Huynh …. cũng bảo trọng.
Nhìn thấy giọt nước mắt trong suốt của nàng, Địch Thanh sững sờ. Gió lạnh như đao cắt, chàng không nỡ để cô gái chịu lạnh thêm nữa nên kiên quyết nói:
– Ừ.
Rồi không quay đầu lại chàng sải bước rời đi, trong tai vẫn còn văng vẳng giọng nàng thầm thì: “Phiếm bỉ Bách chu, diệc phiếm kỳ lưu.” Địch Thanh thoáng dừng lại, lời nàng nghe như là thơ. Bước chân chỉ chậm lại trong chốc lát liền tăng tốc rời đi, sau cùng còn nghe thấy nàng nói: “Cảnh cảnh bất mị, như hữu ẩn ưu.”
(Tạm dịch: bập bềnh như thuyền gỗ Bách, nổi trôi theo dòng nước chảy, trong lòng canh cánh không ngủ được, như có ưu sầu trong lòng.- Thuyền Bách dập dềnh, trên dòng lênh đênh, bâng khuâng không ngủ, chất chứa ưu phiền)
Địch Thanh đã đi xa, nhưng bốn câu kia vẫn còn quanh quẩn trong đầu chàng: “Phiếm bỉ Bách chu, diệc phiếm kỳ lưu. Cảnh cảnh bất mị, như hữu ẩn ưu.” Chàng biết bài thơ đó miêu tả một người đang ưu sầu, nhưng rốt cuộc nàng muốn nói tới chàng hay là nói bản thân nàng đây? Địch Thanh nghĩ mãi mà không rõ. Chàng tăng tốc bước nhanh trở về Quách phủ mà như đang chạy trốn.
Quách Quỳ không có ở trong phủ, Quách Tuân cũng không thấy đâu. Địch Thanh hơi thất vọng.
“Nếu như có Quách Quỳ ở đây, mình có thể hỏi xem câu thơ kia có nghĩa là gì, nếu như có Quách Tuân ở đây, mình cũng có thể cám ơn Quách đại ca đã cưu mang mình bấy lâu nay”. Nhưng chàng lại chợt nghĩ: “Biết thì sao nào? Cám ơn thì sao nào? Biết rồi chỉ tăng thêm phiền não, loại tình huynh đệ thâm sâu này, làm sao có thể chỉ một lời cám ơn là xong được?”
Địch Thanh ngồi ở trước phòng ngủ một giấc nhằm khôi phục thể lực, khi tỉnh dậy thì đã sắp hoàng hôn.
Địch Thanh không chuẩn bị hành lý. Chàng rút đao đem đi mài ở một tảng đá nhám thật lớn. Đến khi đao được mài bóng loáng ánh lên vẻ băng lãnh thì chàng bỗng lẩm bẩm nói: “Đao à! Đêm này ta đành phải trông cậy vào mi, sau này bỏ mạng cũng chỉ có mi theo cùng…” Nhìn thấy trời đã nhá nhem tối, chàng thu đao vào vỏ, cẩn thận sửa sang lại trang phục. Nhằm khi xuất chiêu được dứt khoát gọn gàng, chàng không mang theo hành lý .
Trăng non đã lên, Địch Thanh đội mũ mềm, sải bước rời khỏi Quách phủ. Chàng tìm đại một quán rượu ngồi xuống ăn nửa cân thịt dê, lại nốc thêm hai cái bánh bao, sau đó đến nơi mà lúc sáng chàng từng uống rượu. Chàng kéo mũ mềm xuống thấp định vào do thám tình hình, nhưng chưa kịp tiến vào quán rượu thì đã nghe thấy tiếng người trò chuyện ồn ào ở phía đằng xa. Địch Thanh lật đật lách mình vào một góc tối. Chàng thấy Hạ Tùy dẫn theo bảy tám người đi tới, bọn người Tống Thập Ngũ, Lệ Chiến, Cao Đại Danh, Uông Minh Đô đều có đủ và có thêm mấy người lạ mặt, song không thấy Khâu Minh Hào đâu cả. Địch Thanh cảm thấy hơi yên tâm, thầm nghĩ: “Thiếu Khâu Minh Hào thì đối phó với tên Hạ Tùy uống say mèm này càng thêm nắm chắc mấy phần.”
Hạ Tùy lớn lối nói:
– Mấy ngày nay, các huynh đệ đã khổ cực nhiều, đêm nay cứ uống thoải mái đi, không say không về. Con mẹ thằng nào không uống thả ga, lão tử tuyệt không tha cho chàng!
Mọi người vỗ tay hoan hô vang trời. Địch Thanh mừng thầm trong lòng, thầm nghĩ: “Cả đám rùa các ngươi uống càng nhiều càng tốt”. Chàng đứng ở một góc nhỏ khuất gió dán mắt nhìn về phía quán rượu.
Gió rét lạnh lẽo, trăng mờ không sáng.
Qua khoảng một canh giờ, nơi quán rượu vẫn ồn ào náo nhiệt, Địch Thanh lắc lư thân thể có chút tê dại, mở to mắt nhìn sang. Trong bóng đêm, đèn đóm trong quán rượu càng thêm sáng ngời. Hạ Tùy đã uống say mèm, được hai tên thuộc hạ dìu ra khỏi quán rượu, hai tên này bước đi cũng xiêu vẹo, thỉnh thoảng cả ba lại té ầm xuống mặt tuyết. Không những Hạ Tùy không nổi giận mà còn hét lớn:
– Tiếp tục uống nào, không uống là đồ con nít.
Rồi hắn nấc lên như muốn ói, nhưng ụa ọe mấy lần vẫn không phun ra được gì sất.
Địch Thanh thấy thế thì mừng rỡ, nghĩ thầm: “Mấy tên này đều đã uống say. Ha ha, là ông trời có mắt, cho mình cơ hội để báo thù rửa hận.”
Tay đặt lên chuôi đao, Địch Thanh vừa định lao ra kết liễu Hạ Tùy thì đột nhiên có một bàn tay ấn vai chàng xuống. Bàn tay này cực kỳ chắc khỏe, đặt ở trên vai Địch Thanh nặng hơn ngàn cân.
Địch Thanh kinh hãi, cho rằng có kẻ địch ở sau lưng tập kích. Chàng lập tức thúc mạnh khủy tay thẳng vào ngực kẻ đó rồi bước tới trước hai bước, sau đó xoay người định rút đao. Không ngờ người sau lưng bị Địch Thanh thúc mạnh mà vẫn điềm nhiên như không. Trái lại, gã còn cất bước lao tới bắt lấy cổ tay của Địch Thanh, thấp giọng nói:
– Là huynh.
Địch Thanh cảm thấy cổ tay mình như bị còng sắt kẹp vào, giật mình kinh hãi, nhưng khi nghe thấy giọng nói đó thì định thần nhìn lại, lập tức cả kinh hỏi:
– Quách đại ca, sao lại là huynh?
Người vừa đến chính là Quách Tuân!
Quách Tuân nghiêm mặt không trả lời. Gã đưa tay kéo Địch Thanh đi sâu vào trong ngõ nhỏ. Địch Thanh quay đầu nhìn lại, thấy bọn người Hạ Tùy đã dần đi xa thì không khỏi khẩn trương. Nhưng mà bị Quách Tuân kéo đi, chàng đành trơ mắt nhìn Hạ Tùy rời đi. Đợi qua hẻm tối, đến đầu đường bên kia, Quách Tuân lúc này mới buông tay ra, lạnh lùng hỏi:
– Đệ tới đây làm gì?
Địch Thanh do dự một chút, cuối cùng nói:
– Giết Hạ Tùy.
– Vì sao?
Quách Tuân dường như đã đoán ra được.
Địch Thanh căm hận nói:
– Vì hắn muốn giết đệ, nếu không phải may mắn, tối qua đệ đã chết rồi.
Quách Tuân nhìn con đường dài thê lương nói:
– Không phải lúc nào cũng may mắn.
– Đúng thế, may mắn không phải lúc nào cũng có, cho nên đệ phải nắm chắc cơ hội lần này. Quách đại ca, đệ biết huynh muốn tốt cho đệ. Nhưng nếu đệ không giết Hạ Tùy, sớm muộn gì hắn cũng sẽ ra tay với đệ. Đệ không muốn làm huynh khó xử, cũng không muốn huynh can dự vào chuyện này. Lần này, sau khi đệ giết hắn xong, đệ sẽ phiêu bạt nơi chân trời góc bể, huynh cứ coi như là…. chưa từng có người huynh đệ như đệ! Đệ van huynh đó!
Chàng xoay người muốn đi, Quách Tuân cười gằn:
– Huynh chỉ ngăn đệ một lần. Nhưng nếu đệ ngoan cố muốn đi tìm cái chết, huynh cũng đành bó tay.
Địch Thanh rùng mình, dừng lại hỏi:
– Sao huynh nói vậy?
Quách Tuân đáp:
– Đệ có biết tửu lượng của tên Hạ Tùy này cực mạnh không? Huynh chưa từng nhìn thấy hắn uống say bao giờ.
Lòng Địch Thanh trầm xuống, hít sâu một hơi hỏi:
– Vậy hôm nay hắn…..?
Quách Tuân thản nhiên:
– Hôm nay, hắn dẫn theo ba tên cao thủ, hơn nữa còn giả vờ say, nếu đệ đi thì ngủm củ tỏi là cái chắc.
Địch Thanh giống như bị một chậu nước lạnh tạt vào. Cả người chàng rét run:
– Hắn vờ say, cớ gì hắn muốn giả vờ say?
Quách Tuân cười lạnh:
– Đơn giản thôi, hắn đang ngồi câu cá đấy. Hắn đợi tên ngu ngốc nào đó cho rằng hắn đã uống say mà xông tới giết hắn, sau đó hắn sẽ giết tên ngu ngốc đó đi.
Địch Thanh ứa mồ hôi lạnh. Bây giờ chàng mới nhận ra việc chạm mặt với bọn người Tống Thập Ngũ không phải là trùng hợp, chuyện Hạ Tùy say rượu cũng là một cái bẫy. Thì ra tất cả mọi chuyện đều là do Hạ Tùy sắp đặt, nếu chàng không hiểu rõ ngọn nguồn mà xông đến ám sát, nói không chừng đã bị Hạ Tùy giết chết tại trận.
Địch Thanh được mấy câu nói của Quách Tuân đề tỉnh, nhưng trong lòng chàng vẫn còn nghi hoặc, không nhịn được hỏi:
– Quách đại ca, làm sao huynh biết Hạ Tùy bày ra kế này để giết đệ?
Quách Tuân nói:
– Huynh đã hỏi đám người Vương Khuê, Triệu Luật, Lý Giản. Huynh cảm thấy chuyện bắt loạn đảng trong Tào phủ có vấn đề. Vừa rồi huynh thấy đệ nghiến răng nghiến lợi, còn Hạ Tùy thì giả bộ say rượu. Huynh tổng hợp mấy cái này lại liền biết rõ mọi chuyện. Hạ Tùy muốn giết đệ, hắn cũng không thể biết chắc đệ có đoán ra được hay không, vì thế hắn muốn bố trí cái thòng lọng này để dẫn dụ đệ. Nếu đệ mắc câu thì rõ ràng chỉ có con đường chết. Nếu đệ không mắc câu, hắn sẽ cho rằng đệ không nhìn ra kẽ hở nên tạm thời sẽ không ra tay nữa.
Địch Thanh phẫn nộ nói:
– Hắn không ra tay thì sao chứ? Hắn muốn giết đệ, chẳng lẽ đệ cứ nhẫn nhịn như vậy sao?
Quách Tuân tỏ ra cảm thông, ngẫm nghĩ một lúc rồi nói:
– Thực lực của đệ không đủ, không nhẫn nhịn thì có thể làm được gì chứ? Chẳng lẽ đưa đầu ra cho người ta thịt sao?
Địch Thanh thở ra một hơi, chậm rãi nói:
– Vâng, đệ…nhịn!
Chàng thầm nghĩ: “Loại chuyện không chứng không cứ này, mình đã liên lụy Quách đại ca quá nhiều nên không thể nhờ Quách đại ca giúp đỡ nữa, đã vậy rồi thì mình đành phải chờ cơ hội tiếp theo.”
Chàng chôn thù hận vào lòng, vẻ mặt trở nên bình tĩnh hơn. Phải hứng chịu uất ức nhiều năm, tên thôn quê lỗ mãng này đã được tôi luyện dần dần trở nên thâm trầm hơn.
Quách Tuân nhìn Địch Thanh một lúc rồi nói:
– Hãy theo huynh.
Gã sải bước về phía trước, rồi lách vào một con đường, tìm quán rượu ngồi xuống.
Trời đông giá rét, quán rượu này đã sớm không còn người khách nào. Trong quán chỉ có một ngọn đèn dầu hiu hắt như trăng, một lão già nhìn ngọn đèn, lẳng lặng chờ đợi. Có thể lão đang đợi khách, mà cũng có thể lão đang ngồi đếm tuổi già. Người giống như lão đây, bây giờ xem ra chỉ có nước ngồi chờ đợi, chờ đến lúc kết thúc cõi đời này.
Nghe tiếng bước chân, lão đứng dậy nghênh đón:
– Quách quan nhân, ngài đã đến. Như cũ sao?
Hóa ra ông lão này đã sớm quen biết Quách Tuân.
Trên mặt ông lão này có một vết sẹo dài cắt ngang qua hàng chân mày, dung mạo có chút quái dị, lão bị thọt một chân. Địch Thanh nhìn thấy bỗng nghĩ đến đại ca Địch Vân của mình, trong lòng liền nảy sinh đồng cảm.
Quách Tuân gật đầu nói:
– Làm phiền Lưu lão tía. Muộn như vậy rồi mà còn mở cửa sao?
Nếp nhăn trên mặt của Lưu lão tía như đao khắc. Lão nghe vậy thì cười nói:
– Lão lo là ngài không đến làm phiền lão. Người già rất khó ngủ, hiếm khi có người tới đến đây nói chuyện với lão. Vị tiểu ca này là bạn của ngài sao?
Quách Tuân gật đầu nói:
– Ừ, hắn là Địch Thanh.
Lưu lão tía “A” lên một tiếng rồi nhìn Địch Thanh đăm đăm, sau đó hỏi:
– Như cũ sao?
Quách Tuân gật đầu, đáp gọn lỏn:
– Hai phần.
Lưu lão tía không nhiều lời nữa. Lão bước tập tễnh ra phía sau. Chỉ chốc lát sau lão đã bưng ra mấy đĩa đồ kho và hai bầu rượu. Sau đó, lão lặng lẽ rời đi, như thể đã thành thói quen.
Địch Thanh nhịn không được hỏi:
– Quách đại ca, huynh thường đến đây sao?
Quách Tuân gật đầu, nâng bầu rượu lên rót đầy chén. Gã tự rót tự uống, vẻ mặt đăm chiêu, giống như đang suy nghĩ gì đó. Địch Thanh thấy Quách Tuân như thế, chợt có cảm giác như Lưu lão tía là đang đợi Quách Tuân, do đó mới không chịu đóng cửa sớm. Rõ là Quách Tuân thường xuyên đến đây, Địch Thanh nhìn mấy đĩa đồ kho, một bầu rượu, nghĩ tới Quách Tuân uống rượu một mình trong đêm đông. Chàng lại cảm thấy Quách đại ca rất cô đơn và đầy tâm sự.
Nhưng Địch Thanh không phải cũng đầy tâm sự sao? Chàng tự rót cho mình một chén rượu, nhấp một hớp thì cảm thấy miệng đắng chát.
Quách Tuân đặt chén rượu xuống, đột nhiên nói:
– Hôm nay trước khi tế tự, thiên tử vẫn quyết định dẫn văn võ bá quan đến điện Hội Khánh, trước là chúc thọ cho Thái Hậu, sau đó mới đến điện Thiên An tiếp nhận triều bái của triều thần.
Địch Thanh nhớ lại những lời trước đây mà Quách Tuân đã nói, nhíu mày hỏi:
– Lẽ nào Thái Hậu chuẩn bị xưng đế thật ư?
Quách Tuân tránh không đáp vấn đề này, kể tiếp:
– Trước đó vài ngày, Phạm Trọng Yêm và Tống Thụ đều bị cách chức đuổi khỏi kinh thành.
Địch Thanh lẩm bẩm nói:
– Bọn họ vì kiến nghị Thái Hậu trao trả triều chính cho thiên tử nên mới chọc giận Thái Hậu ư? Tuy nhiên, chuyện này có quan hệ gì với đệ chứ?
Quách Tuân nhìn thẳng vào Địch Thanh, chậm rãi nói:
– Chuyện huynh sắp nói cho đệ biết lại có quan hệ rất lớn với đệ. Hạ Tùy vốn là người của Thái Hậu.
Trong đầu Địch Thanh bỗng có tia điện xẹt qua, nghẹn lời hỏi:
– Hắn rắp tâm muốn giết đệ cho bằng được, lẽ nào là vì chuyện Mã Trung Lập sao?
Quách Tuân nhấc chén rượu lên, trầm mặc không nói gì. Trầm mặc có đôi khi đại biểu cho đồng ý.
Địch Thanh rốt cuộc hiểu rõ hết thảy ngọn nguồn, tim đập thình thịch.
Quách Tuân uống cạn chén rượu, nói tiếp:
– Vậy là đệ đã hiểu rồi, bản án của đệ mặc dù đã chấm dứt, nhưng chuyện đó vẫn chưa xong đâu. Hạ Tùy là người của Thái Hậu, lần này giết đệ quá nửa là trút giận cho Mã Quý Lương.
Ánh mắt gã lấp lánh như có gì muốn nói nhưng lại thôi.
Địch Thanh không chú ý tới sự khác thường của Quách Tuân, tay cầm chén nổi rõ gân xanh, nói:
– Đệ đã hiểu….
– Đệ đã hiểu nhưng huynh lại có chuyện không hiểu.
Trong mắt Quách Tuân hiện lên vẻ uy nghiêm, trầm giọng hỏi:
– Sao đệ lại có bản lĩnh giết Tăng Trưởng Thiên Vương thêm lần nữa chứ?
Ánh mắt Quách Tuân sáng quắc, Địch Thanh không thẹn với lương tâm, cười khổ nói:
– Đệ không biết.
– Đệ không biết?
Quách Tuân chau mày hỏi:
– Sao đệ lại không biết?
Địch Thanh do dự một lúc. Sau đó chàng thò tay vào trong ngực móc Ngũ Long ra đặt lên bàn, khó xử nói:
– Đệ thật sự không biết, Quách đại ca, đệ …. e rằng vật này đang tác quái.
Chàng căn bản không biết giải thích như thế nào và cũng cho rằng Quách Tuân sẽ không tin lời giải thích của chàng. Không ngờ khi Quách Tuân nhìn thấy Ngũ Long, đột nhiên biến sắc. Gã run giọng hỏi:
– Sao Ngũ Long lại ở trong tay đệ?
Vào thời khắc này, trong mắt Quách Tuân đầy vẻ kinh hãi, ngạc nhiên, còn có hoang mang; thậm chí xen lẫn cả hoảng sợ. Địch Thanh thấy thế thì khó hiểu, lắp bắp hỏi:
– Quách đại ca, huynh đã gặp qua vật này?
Một tiếng “rốp” vang lên, chén rượu trong tay Quách Tuân đã bị bóp nát, nhưng dường như gã vẫn chưa biết, lẩm bẩm nói:
– Di Lặc sinh ra, tân Phật độ kiếp. Ngũ Long xuất thế, lệ rơi không ngừng! Ngũ Long này ….. rốt cuộc đã xuất thế. Chẳng lẽ… lời hắn nói là thật ư?
Địch Thanh thấy Quách Tuân lặp lại y như đúc lời của Đa Văn Thiên Vương năm đó thì sợ hãi nói:
– Quách đại ca, huynh sao thế?
Chàng lại nghĩ thầm: “Không biết ‘hắn’ mà Quách đại ca vừa nói là ai?”
Quách Tuân cuối cùng phục hồi lại tinh thần, nhìn chòng chọc vào Ngũ Long trên bàn, thật lâu sau mới vươn tay ra, nhẹ nhàng đụng vào. Gã lại lộ ra vẻ hoang mang, nhỏ giọng hỏi:
– Địch Thanh, sao đệ lại có được viên Ngũ Long này?
Tuy Địch Thanh ngạc nhiên trước phản ứng của Quách Tuân nhưng chàng vẫn mang mọi chuyện xảy ra lúc trước kể lại một lần, từ lâu chàng đã xem Quách Tuân như người thân. Chàng đã giấu chuyện này rất lâu, trừ Quách Tuân ra thì chàng chưa từng nói cho ai khác biết.
Vẻ mặt Quách Tuân đăm đăm, như là nghiêm túc lắng nghe, lại như là căn bản không nghe thấy lời Địch Thanh nói. Địch Thanh nói xong, thấy Quách Tuân như mất hồn lạc phách, chàng không nhịn được hỏi:
– Quách đại ca, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì? Tất cả… là ảo giác của đệ? Hay là do Ngũ Long này thật sự…có điều quái dị?
Quách Tuân lấy lại bình tĩnh, chần chừ đáp:
– Ngũ Long này…vốn là vật của tiên đế.
Địch Thanh hoảng hốt hỏi:
– Đây là vật của Chân Tông?
Quách Tuân bối rối nhìn ngọn đèn dầu, ngọn đèn lúc sáng lúc tối rọi vào làm sắc mặt Quách Tuân cũng thay đổi liên tục. Thật lâu sau, Quách Tuân mới thấp giọng nói:
– Thật ra thì huynh cũng không dám khẳng định. Lúc tiên đế tại vị, huynh là Ngự Tiền thị vệ. Có một đoạn thời gian, huynh thấy ông ấy cả ngày cầm Ngũ Long này trầm ngâm không nói lời nào.
Địch Thanh trợn mắt há hốc mồm hỏi:
– Nếu là vật của tiên đế thì sao lại giấu ở trên thân tượng phật Di Lặc? Nếu là vật của tiên đế thì sao Đa Văn Thiên Vương có thể biết vật này giấu ở đâu? Bốn câu nói kia rốt cuộc là có ý gì? Quách đại ca, huynh biết được những gì vậy?
Quách Tuân thở dài nói:
– Thật lòng huynh cũng hy vọng mình có thể biết.
Gã lại có chút thất vọng, đột nhiên tóm lấy tay Địch Thanh nói vội:
– Địch Thanh, huynh chỉ biết viên Ngũ Long này là vật chẳng lành. Đệ vứt nó đi, được không?
Địch Thanh ngẩn ra, ngạc nhiên hỏi:
– Tại sao?
Chàng chưa bao giờ cảm thấy Ngũ Long có gì chẳng lành. Ngược lại, ở trong suy nghĩ của chàng, Ngũ Long đang không ngừng giúp chàng.
Khóe miệng Quách Tuân giật giật, trong mắt hiện ra vẻ xót xa khó nói nên lời, hồi lâu mới đáp:
– Đệ đừng hỏi, huynh cũng không biết.
Địch Thanh chồm tới chụp lấy Ngũ Long, lắc đầu nói:
– Quách đại ca, đệ không thể vứt nó đi, huynh đừng bức đệ!
Thân thể Quách Tuân chấn động. Gã đứng bật dậy, cả người run rẩy, ánh mắt trở nên cực kỳ sắt bén, thậm chí còn kèm theo mấy phần dữ tợn.
Địch Thanh nhìn thấy vẻ mặt đáng sợ của Quách Tuân, trong nhất thời cũng biến sắc.
Ánh đèn lập lòe, cơ nhục trên mặt Quách Tuân hơi co giật, trầm giọng nói:
– Vì sao đệ không chịu vứt nó đi?
Trong cơn thống khổ vừa xen lẫn bất an, rốt cuộc gã đã mất đi sự bình tĩnh thường ngày.
Địch Thanh nói rành mạch từng chữ:
– Nếu không nhờ nó, lúc đó đệ đã chết trong tay Tăng Trưởng Thiên Vương rồi!
Quách Tuân chấn động, khôi phục lại tỉnh táo, chậm rãi ngồi xuống, lẩm bẩm nói:
– Nếu đệ không có nó…nói không chừng…
Gã nhìn thấy Địch Thanh đầy kích động, cuối cùng thở dài một hơi, không nói gì thêm nữa.
Địch Thanh rất đỗikỳ quái, thầm nghĩ: “Quách đại ca muốn nói điều gì? Nếu mình không có nó, nói không chừng cái gì?”
Quách Tuân nhấc bầu rượu lên, chậm rãi rót đầy chén rượu, dần dần bình tĩnh trở lại. Gã thầm nhủ: “Ngũ Long lại xuất thế, lẽ nào lời tiên đoán của người đó là thật ư? Nếu là thật thì Địch Thanh sẽ có việc gì không? Với mình, Ngũ Long là tai họa, nhưng trong cảm nhận của Địch Thanh thì sao? Mấy năm nay, tinh thần đệ ấy sa sút chán nản, hiếm khi thích vật nào đó, mình sao đành tâm mà bảo đệ ấy vứt nó đi chứ? Đại Tướng Quốc Tự bị hủy, tượng phật Di Lặc hư hại, Thái Hậu tức giận vốn là vì viên Ngũ Long này. Thái Hậu rốt cuộc biết những gì? Đa Văn Thiên Vương rốt cuộc là ai? Làm sao hắn biết được tung tích của Ngũ Long? Tại sao Bất Không của Thổ Phiên cũng muốn có được Ngũ Long?”
Tất cả những chuyện đó đã trở thành khúc mắc khó giải ở trong lòng Quách Tuân.
Hồi lâu sau Quách Tuân mới nói:
– Tiên đế tín thần. Năm xưa, cả nước tín thần tu đạo, có lẽ đệ cũng biết?
Địch Thanh gật đầu:
– Đó là chuyện cười xảy ra nhiều năm trước. Cho dù chúng đệ ở thôn quê, cũng đều nói Chân Tông rất hồ đồ, lừa mình dối người.
Quách Tuân mỉm cười nói:
– Trước đây, tiên đế nói trời ban điềm lành, thần tiên truyền thụ cho ông ấy thiên thư, chuyện này quả thật có rất nhiều người không tin. Nhưng tiên đế dù sao vẫn là quân vương, nếu không có chút kỳ dị thì sao ông ta lại si mê đến thế? Huynh biết, Ngũ Long này chính là vật mà thần cho y.
Địch Thanh run rẩy:
– Thần? Có thần thật sao? Làm sao có thể chứ?
Quách Tuân không đáp, tiếp tục nói:
– Thái Hậu cũng không tin những gì Chân Tông nói, vả lại còn cực kỳ căm ghét thiên thư gì đó của Chân Tông. Sau khi Chân Tông tạ thế, Thái Hậu đem tất cả những thứ thuộc về Chân Tông phong kín vào trong lăng Vĩnh Định. Lúc đầu huynh cũng tưởng Ngũ Long cũng được cất giấu vào lăng Vĩnh Định, giờ nghe lời đệ nói, huynh mới biết được năm đó Thái Hậu giấu Ngũ Long trong tượng phật Di Lặc. Không ngờ ý trời sâu xa, đệ đụng bậy đụng bạ mà lại có được nó.
Địch Thanh hỏi:
– Vậy bốn câu “Ngũ Long xuất thế” kia, nghĩa là gì?
Quách Tuân nói:
– Đây vốn là lời sấm của một vị ẩn sĩ. Năm đó, Thái Hậu từng đem chuyện Ngũ Long hỏi vị ẩn sĩ kia, ẩn sĩ đó liền đọc ra bốn câu sấm này. Cụ thể có ý gì, e rằng trừ vị ẩn sĩ đó ra, không ai biết được.
– Ẩn sĩ đó là ai?
Quách Tuân trầm mặc một lúc rồi nói:
– Y là Thiệu Ung, nghe đâu y là đồ tôn của Trần Đoàn, được đệ tử Lý Chi Tài của Trần Đoàn chân truyền.
Địch Thanh nhịn không được hỏi:
– Trần Đoàn? Chính là vị thần tiên luận cờ với Thái Tổ ở Hoa Sơn sao?
Quách Tuân gật đầu nói:
– Đúng vậy, đồn rằng Trần Đoàn giống như thần tiên. Khi đó, Thái Tổ nhờ được Trần Đoàn chỉ điểm nên mới có thể từ một tên cấm quân tầm thường lập nên nghiệp lớn. Y và Thái Tông dựa vào bốn nắm tay và hai côn đánh hạ bốn trăm châu của Đại Tống.
Thấy Địch Thanh muốn nói lại thôi, Quách Tuân hỏi:
– Đệ có lời gì muốn nói sao?
Địch Thanh do dự nói:
– Năm đó, thuật sĩ xem mệnh cho mẹ đệ, cũng chính là Trần Đoàn.
Quách Tuân chấn động, thất thanh hỏi:
– Trần Đoàn nói mẹ đệ có thể sinh ra được tể tướng?
Địch Thanh gật đầu, trầm mặc một lúc rồi nói:
– Điều này chỉ là nói bậy nói bạ thôi, rõ ràng không thể coi là đúng được. Đệ là cái gì chứ? Sao lại có số mạng làm tể tướng chứ?
Quách Tuân liếc nhìn Ngũ Long, trong lòng cực kỳ phức tạp, hình như đang suy nghĩ gì đó, hồi lâu mới nói:
– Có lẽ đây là ý trời a…
Địch Thanh khó hiểu hỏi:
– Quách đại ca, huynh nói cái gì là ý trời vậy?
Quách Tuân cười gượng nói:
– Ý trời cho phép đệ có được Ngũ Long, nhưng nếu đệ không vứt nó đi, sau này đừng có hối hận.
Trong vẻ mặt trầm trọng của gã còn mang theo phần bất đắc dĩ, nhưng không khuyên Địch Thanh vứt bỏ Ngũ Long nữa.
Địch Thanh nghiêm giọng nói:
– Chuyện đệ làm, tuyệt không hối hận.
Quách Tuân chậm rãi đứng dậy, thoạt nhìn lòng đầy tâm sự. Gã thở dài một hơi, nói:
– Huynh phải đi làm chuyện khác trước đây. Lần này, đệ không đến giết Hạ Tùy, chắc hắn nghĩ đệ không nhìn thấu tâm tư của hắn nên tạm thời sẽ không ra tay với đệ nữa. Đệ nên cẩn thận nhiều hơn, trước mắt sẽ không có chuyện gì xảy ra đâu.
Địch Thanh thấy Quách Tuân sắp đi. Chàng bỗng nghĩ tới một chuyện, vội hỏi:
– Quách đại ca, lời sấm đó trừ Thái Hậu và huynh ra, còn có ai khác biết không?
Quách Tuân trầm ngâm một lát rồi lắc đầu nói:
– Chắc không có đâu.
Ánh mắt Địch Thanh lóe lên, nói rõ ràng từng chữ:
– Nếu lời sấm kia trừ huynh và Thái Hậu ra không còn có ai biết. Vậy Đa Văn Thiên Vương làm sao biết được? Dĩ nhiên, bí mật này huynh và Thái Hậu sẽ không nói cho Đa Văn Thiên Vương biết, chẳng lẽ… là Thiệu Ung nói cho hắn biết sao?
Chàng phát hiện ra điểm nghi vấn liền hưng phấn nói:
– Có lẽ chúng ta có thể tra ra được tung tích của Đa Văn Thiên Vương từ trên người Thiệu Ung.
Quách Tuân thở ra một hơi nói:
– Thiệu Ung là kỳ nhân ẩn sĩ, không có nơi ở cố định, muốn tìm ra y, dễ lắm sao? Nhưng huynh nghĩ quá nửa là không phải do hắn nói, chắc có lẽ là…
Ánh mắt gã sáng lên, dường như nhớ ra chuyện gì đó. Song gã lại không nói tiếp, thoắt cái đã hòa mình vào trong bóng đêm mịt mù.
Địch Thanh trầm tư suy nghĩ mãi nhưng vẫn không tìm ra điểm mấu chốt, chàng thầm nghĩ: “Theo như lời Quách đại ca nói, Thiệu Ung sẽ không nói ra bí mật này. Quách đại ca nhất định cũng sẽ không nói, biết rõ bí mật này chỉ còn có Thái Hậu, nhưng dĩ nhiên Thái Hậu cũng sẽ không nói!”
Vừa nghĩ đến đây, Địch Thanh chợt thấy rất đau đầu. Hắn lặng lẽ đặt xuống bàn chút bạc vụn rồi rời khỏi quán rượu. Lưu lão tía cũng không có đi ra, dường như đã ngủ rồi.
——-> Thảo luận Góp ý