*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.
Lục Triển Đình cong lưng nằm co ro ở đáy thuyền, lắc lư mấy ngày nay khiến y ói ra dữ dội, tiện đà lại bị sốt cao. Y nghe được tiếng thuyền đã cập bến, tiếp đó trên đầu sáng bừng, có người xốc nóc lên, hướng y rống lên một tiếng: “Độc nhãn long, mau đứng lên! Dỡ hàng!”
Lục Triển Đình gắng sức ngồi dậy, chậm chạp leo thang bò lên trên mạn thuyền, ánh sáng chiếu vào gần như che đi cái bớt màu đỏ trên nửa khuôn mặt, thoạt nhìn trông rất khó coi lại vừa quái dị, khiến cho rất ít người nguyện ý mà lần thứ hai để vào mắt. Không khí trong lành bên bờ kênh đào làm tinh thần y không khỏi phấn chấn hẳn lên. Y vừa định hít thở sâu mấy cái, đã bị người ở phía sau hung hăng đá cho một cước, đầu lĩnh Cao mập mạp hung tợn nói: “Lúc trước nếu không thấy tiền công của ngươi rẻ thì đã không cần sửu bát quái ghê tởm như ngươi, không nghĩ tới việc gì ngươi cũng không làm được, làm toi công mấy ngày kiếm ăn của ta.”
Lục Triển Đình chậm chạp từ sàn thuyền đứng lên, miệng lầu bầu nói: “Trách không được người ta nói trên đời đáng hận nhất chớ quá “xa thuyền điếm cước nha”[1], bắt được thì đáng chết.”
“Ngươi nói gì?”
“Ta nói ta phải đi, phải đi!”
Bốc dỡ hàng xong xuôi, Lục Triển Đình ngồi bên cạnh bến đò nghỉ ngơi. Dương Châu tuy nhỏ, nhưng thắng cảnh ở đây lại rất lung linh kỳ lạ. Trời giống như sắp mưa, cả không trung tỏa thành một vùng mây đen nghìn nghịt. Tiểu thương, lão đầu, dân chúngđẩy xe, xách bao phục, vội vàng chạy gấp gáp thu dọn. Sắp đến tết Trùng Dương[2], mặt trên cửa ra vào của rất nhiều cửa tiệm được dán những tấm bùangải[3] mỏng.
Nhớ tới mùng chín tháng chín năm trước, dường như đã là chuyện rất xa rồi, Lục Triển Đình nhẹ nhàng thở dài một tiếng. Y thấy thuyền gia dường như đang thu lại mỏ neo, liền nhân lúc giả ý đi tới, nói: “Cao lão đại, gần đây cơ thể ta đã tốt lên nhiều, cam đoan sau này có thể một chọi hai!”
Cao mập mạp hung hăng phì một tiếng khinh miệt, nói: “Ngươi cút càng xa càng tốt cho ta nhờ, còn muốn ăn không ngồi rồi, ngươi thôi nằm mơ đi!”
Lục Triển Đình trong lòng thầm buồn cười, miệng lại nói: “Cao lão đại, vậy ngươi như thế nào cũng phải mang ta về a.”
Cao mập mạp tựa hồ đã quyết định chủ ý không muốn tranh cãi với y, thu mỏ neo lại, hối hả căng buồm. Lục Triển Đình nhìn con thuyền đi xa dần mệt mỏi duỗi thắt lưng một cái, đột nhiên nhớ đến chuyện gì, hướng con thuyền đi xa kia hô to: “Này, ngươi dù sao cũng nên đem một khoản cơm chiều để ta ở lại a.”
Lục Triển Đình vuốt cái bụng rỗng tuếch sau khi đã tiêu hao một đống thể lực, không khỏi âm thầm cười khổ. Mới đi một vài bước, trên trời liền rơi xuống từng giọt từng giọt mưa, rất nhanh càng rơi xuống càng lớn. Lục Triển Đình vội vàng trú dưới mái hiên của một cửa tiệm, chân còn chưa đứng vững đã bị giội một chậu nước từ bên trong vào người, nói: “Tên sửu bát quái ngươi mau cút, đừng mang đến xui xẻo cho nãi nãi ngươi!”
Lục Triển Đình đè nén không bỏ đi chỗ nào khác, thế nhưng mưa càng rơi xuống càng lớn, y đành phải vội vàng chạy đi tìm một nơi khác trú mưa. Vũ thế quá lớn, mặc dù Lục Triển Đình tận khả năng đứng nép sát dưới mái hiên, nhưng vẫn bị tạt cho ướt đẫm.
Mưa thật vất vả mới ngừng, Lục Triển Đình ngẫm nghĩ nên đi tìm một hộ nhân hỏi thăm một chút về Diệp gia, nhớ tới vẫn chưa nhìn kỹ qua nội dung. Y đưa tay luồn vào trong ngực lấy ra một cái túi gấm, nhưng khi mở ra nhìn, không khỏi choáng váng, cả túi gấm đã ướt đẫm hết rồi, lá thư cũng bị dính thành một mảnh, căn bản thấy không rõ trên mặt viết nội dung gì.
Y cầm tờ giấy kia xem lại dưới ánhnắng, đột nhiên cười ha ha đứng lên, người qua đường đều nói sửu bát quái này đúng là người điên. Lục Triển Đình thở dài, đem tờ giấy kia thu lại, rồi cầm cái túi gấm được làm bằng thủ công rất tinh xảo ngắm nghía một chút, đi đến tiểu thực điếm ven đường, đem nó đổi lấy một cái Trùng Dương cao[4].
Y vừa gặm Trùng Dương cao vừa tạt qua cửa tiệm nhà kia, nhìn thấy lão phụ ban nãy khiển trách mình trong tay bưng một chén canh trúc kê thơm ngon, đang nhỏ nhẹ khuyên giải an ủi một nam hài gầy yếu uống. Nam hài kia nửa nằm trên ghế trúc, vẻ mặt buồn bực và không kiên nhẫn.
“Con ngoan, đây là món con thích nhất, trước kia con không phải một ngày không ăn là một ngày không vui sao……” Lão còn muốn khuyên nhủ hai ba câu nữa, thiếu niên kia đột nhiên duỗi tay ném chén canh gà xuống đất, sau đó nặng nề ngã xuống ghế trúc tựa hồ ngất đi. Lão phụ gần như muốn khóc, vừa nhấc đầu thấy Lục Triển Đình đứng ngoài cửa thì hất cao lông mi định quát mắng.
“Hắn trúng độc!” Lục Triển Đình thản nhiên nói.
“Ngươi nói gì?”
“Tin hay không tùy bà, đừng cho hắn uống trúc kê nữa, trúc kê hỉ thực bán hạ, hắn chính là trúng độc cây bán hạ[5] bên trong chén canh trúc kê đó. Dùng hai cân sinh khương[6] giầm với nước, lấy một chén hòa đều với bạch phàn[7] nát vụn, cho hắn uống đều đặn thì tốt rồi.” Y nói lại cắn Trùng Dương cao bỏ đi.
Lục Triển Đình đi xa được một chút thì thấy một nhóm khất cái đang đi phía trước, y nhanh trí chạy đến bắt chuyện: “Ta mới tới, đang không biết qua đêm ở đâu, xin hỏi làm sao mới có thể lưu lại một chân?”
Tên khất cái kia vừa quay đầu lại, cư nhiên cũng là một “Độc nhãn long”, hắn nhìn lướt qua Lục Triển Đình từ trên xuống dưới, dường như ngoại hình này đối với hắn coi như là vừa lòng, nói: “Nghe khẩu âm của tiểu tử ngươi, là nhân sĩ Kim Lăng?”
“Là bị đuổi từ bên kia tới.”
“Đại địa phương tới a?!”
“Đâu có, đâu có.”
“Nơi này là của mấy đại ca chúng ta, nếu ngươi muốn gia nhập thì phải có lòng nguyện ý.” Độc nhãn long kia nhìn chòng chọc vào mặt Lục Triển Đình, Lục Triển Đình suy nghĩ một chút, vội vàng đem Trùng Dương cao mới cắn vài miếng để vào tay hắn. Độc nhãn long tựa hồ cũng không tham gì nhưng lại cảm thấy thỏa mãn tiếp nhận, nói: “Theo chúng ta đi đi!”
Đó là một ngôi miếu hoang ở ngoại thành, xung quanh đều là đoạn tường tàn ngói, chỗ nào trong miếu không bị dột mưa đều bị tên khất cái kia chiếm trước, Lục Triển Đình đành phải tìm một chỗ tạm chấp nhận được nằm xuống. Y hiện tại luôn cảm thấy mình ngủ không đủ, trong giấc mộng có Diệc Dụ trước sau vẫn truy đuổi, dù cho có thể ngủ say, cũng luôn rất nhanh mà giật mình tỉnh giấc.
Sau lưng trời vừa mưa xong nên rất ẩm ướt, thời tiết cũng càng ngày càng lạnh, Lục Triển Đình ngủ thẳng đến nửa đêm, thật sự chịu không nổi, đem những bài vị thần linh tổ tiên trong miếu đắp thành một đống, rồi đốt bùng lên thành một ngọn lửa để sưởi ấm,tới khi sắc trời sắp tỏ, lại mệt nhọc đứng lên, đành tựa trên tường ngủ.
Y vừa đi vào mộng đẹp, thì Diệc Dụ, Chu Nhân thay phiên nhau lộn xộn mà đến. Y mơ thấy tiếng khóc thút thít của Chu Nhân, mơ thấy gương mặt lãnh tiếu của Diệc Dụ, bản thân thì vô lực giãy dụa, y đột nhiên mở mắt, trông thấy một tiểu cô nương vận váy trứu sa lăng tử đỏ hồng, áo bối tâm sa tanh hồng sắc đứng trước mặt lạnh lùng mà nhìn mình.
Nàng có một đôi mày liễu giống như được tô vẽ, đôi mắt to thu thủy hàm yên, hắc bạch phân minh đánh giá Lục Triển Đình từ trên xuống dưới, dường như căn bản không quan tâm Lục Triển Đình có kinh ngạc hay không, một lát sau dưới cái nhìn chăm chú càng không che giấu thêm như thế, dáng bộ mới có vẻ có chút xấu hổ.
“Ngươi cứu Tiểu Tứ Tử?”
Lục Triển Đình ho nhẹ một tiếng, hỏi: “Tiểu Tứ Tử là ai?”
“Là người bị trúng độc của cây bán hạ.”
“Không phải!” Lục Triển Đình vội vàng đáp, y dường như lập tức tỉnh táo lại, vội vàng đứng lên cười nói: “Tiểu thư nhận sai người rồi.”
Tiểu cô nương kia quay đầu lại, đối diện ngoài cửa nói: “Lão ma ma, là người chột mắt này sao?”
Một lão phu nhân thanh sam từ bên ngoài đi vào, lão nhân vừa thấy Lục Triển Đình lập tức mặt mày hớn hở, nói: “Chính là hắn, chính là hắn! Ngày hôm qua hắn nói ta dùng sinh khương pha với bạch phàn cứu Tiểu Tứ Tử. Trước kia Tiểu Tứ Tử hôn mê đều phải cách một ngày mới có thể tỉnh lại, hôm qua mới uống một chén khương thang thì tỉnh lại liền.”
Lục Triển Đình cười khổ nói: “Ta nói nước gừng pha với bạch phàn sao, ta nói là nước gừng pha với bạch thố[8], xong đem nó thấm lên thịt gà.”
“Ta không muốn nhiều lời với ngươi, tên của ngươi?”
Lục Triển Đình buột miệng nói: “Chu Nhân!”
“Châu Nhi?” Tiểu cô nương vẻ mặt buồn cười.
“Chu của tri chu.”
Vị tiểu cô nương kia đột nhiên vung tay lên, một cái mãng tiên đen sẫm cuốn lấy cổ Lục Triển Đình, nàng ban nãy còn nói cười dịu dàng thoáng cái nét mặt đã trở nên nghiêm nghị.”Ngươi hôm nay theo ta xem một người, xem được, ta cho ngươi một trăm lượng bạc……” Những tên khất cái xung quanh một trận kinh ngạc tán thán, tiểu cô nương đắc ý nói: “Nếu ngươi trị không hết…!” Nàng khẽ hừ một tiếng, ghì cây roi cầm trong tay, Lục Triển Đình vội vàng vung tay, cây roi đó tựa như linh xà trượt đi xa.
“Cô nương, ta không phải đại phu!” Lục Triển Đình cười khổ nói: “Ta thấy cô nương vừa ra tay là cả trăm lượng bạc, làm sao không thỉnh một đại phu chính phái chính đáng chứ?”
Nữ hài tử kia buột miệng nói: “Đương nhiên là cũng thỉnh qua, ngay cả ngự y cũng xem qua rồi, đều xem không tốt.” Nàng nói tới đây thì ngữ khí bị kiềm hãm, con ngươi đen nhánh dẫn theo một tầng khinh sa, tựa hồ muốn khóc, nhưng cuối cùng lại hung tợn trừng mắt nhìn Lục Triển Đình. Câu nói uy hiếp từ miệng nàng vẫn chưa nói ra, Lục Triển Đình khẽ thở dài một tiếng, nói: “Vậy chúng ta đi nhìn xem sao.” Nữ hài tử hồng y sửng sốt, Lục Triển Đình lại mỉm cười hỏi: “Nàng tên gì?”
Khi y mỉm cười, đôi môi đạm sắc kia khẽ uốn, hiện ra một đường cong ưu mĩ, nữ hài tử một khắc nghĩ thầm, rằng: “Sửu bát quái này cũng không phải là rất xấu.”
“Ta gọi là Diệp Tuệ Lan.”
“Lan tâm tuệ chất, tên rất hay.” Lục Triển Đình uể oải duỗi thắt lưng một cái, nói: “Ta đói bụng, nếu muốn ta xem bệnh, chung quy cũng không thể để ta bị đói chứ?”
Diệp Tuệ Lan khẽ hừ một tiếng, lão phụ nhân bên cạnh vội vàng cười nói: “Diệp gia đây là đại hộ nhân gia nhất nhì ở Dương Châu, trong nhà chẳng những có thiếu gia làm tướng quân ở đô quận, mà bản thân Diệp gia còn là một thương nghiệp buôn muối lớn nhất trong toàn Dương Châu này, đừng nói là muốn ăn một chút, cho dù là muốn ăn toàn bộ bữa tiệc Mãn Hán cũng nói không dưới. Đầu bếp tốt nhất ở Dương Châu ngay tại Diệp phủ đây.”
Diệp Tuệ Lan đùa giỡn cây roi da trong tay, hoàn toàn không biểu lộ tình cảm, Lục Triển Đình thì lại vỗ tay cười nói: “Vậy thật không còn gì bằng.”
Diệp phủ quả nhiên là hào trạch, trước cửa nhà khác được xếp đặt một đôi thạch sư, duy chỉ trước môn khẩu Diệp phủ thì được bày biện trang trí một đôi đồng sư. Cả Diệp phủ chiếm giữ ruộng đất ước độ có hơn mười công khoảnh[9], từ biệt viện đến chính viện, rõ ràng nơi nơi xa hoa, nhưng lại không có vẻ dung tục,dường như tùy tiện để lộ ra một nhà quyền quý lắm tiền, lại lộ ra một loại khí chất cao quý khác.
Ngóilưu ly hắc sắc, tường vây bạch phấn, thềm đá bạch ngọc, xung quanh phủ một sắc xanh của cỏ hoa, bóng mặt trời thấp thoáng ở từng bụi cây xanh, bốn phía rũ xuống hàng liễu xanh, hành lang gấp khúc, từ đầu đến cuối nơi đây tựa hồ lộ ra địa thế Giang Nam uyển chuyển hàm xúc.
“Đi xem phụ thân ta trước!”
Lục Triển Đình ngáp một cái nói: “Ăn cơm trước đi!”
“Sửu bát quái, ngươi…!” Lông mi Diệp Tuệ Lan hất một cái, lại bị Lục Triển Đình cười bác bỏ, nói: “Phụ thân nàng được nhiều thần y như vậy xem qua, nếu thấy không tốt, chắc hẳn cũng không thấy tệ, một chốc không chết được. Nhưng từ tối qua ta vẫn chưa ăn qua chút gì, không cứu mình trước, chỉ sợ mất mạng đi cứu phụ thân nàng!”
Diệp Tuệ Lan cắn răng một cái, nói: “Dẫn hắn đi thiên thính!”
Lục Triển Đình ngồi xuống giữa thiên thính tráng lệ dường như vẫn chưa vừa lòng, y cười nói: “Nếu các ngươi toàn bộ đều là đầu bếp tốt nhất ở Dương Châu, như vậy ta sẽ tùy thích điểm qua, Tần Hoài tám món sẽ từ bỏ, nhưng dạng món ăn này thực thô tục. Ta cũng không phiền hà gì, vẫn là muốn nói với các ngươi món ăn Dương Châu thuần túy chính gốc, thanh chưng tức ngư,thanh đôn ngư sí, bào ngư và một số món ngon của mùa này, bất quá nói vậy không làm khó được Diệp phủ các ngươi. Kỳ thật cá nhân ta không phải là rất thích ăn món Giang Tô, mà khẩu vị thiên về những món thanh đạm của Chiết Giang, ngươi cho ta tôm nõn Long Tĩnh nữa đi, một vài món điểm tâm tùy ý nữa.”
Mặt Diệp Tuệ Lan đổi màu từ đỏ sang trắng, trắng rồi lại hồng, hồi lâu mới thốt ra một câu: Làm cho hắn. Lục Triển Đình dường như không thấy Diệp Tuệ Lan đã bực bội đến cực điểm rồi nhưng mặt lại đang ra sức kiềm chế, tay y cầm đũa, thưởng thức họa quyển rũ xuống xung quanh. Y dạo qua một vòng, đứng trước một bức họa mở nó ra, lẩm bẩm: “Một bức họa rất có bản lĩnh, đáng tiếc nhãn giới quá nhỏ, vẽ hổ có thể nào trở lại là miêu, đáng tiếc!”
“Ngươi nói gì!” Diệp Tuệ Lan rốt cuộc nhịn không được, nàng chạy tới chỉ vào Lục Triển Đình nói: “Tên khất cái ngươi thì biết cái gì? Đây chính là bức họa của đương kim tài tử số một số hai.”
“Tài tử số một số hai?” Lục Triển Đình kinh ngạc nói, y quay đầu lại nhìn kỹ họa diện một chút, mới ha ha cười nói: “Ta nói người nào lại nửa mở nửa che như vậy, nguyên lai là đại tác phẩm của Phó Thanh Sơn.”
Lục Triển Đình nhìn đến vẻ mặt thân thiết của nàng, tính nết ranh mãnh lại nổi lên, nói:”Nàng có biết vì sao?” Y làm ra vẻ như thần bí nói: “Bởi vì ta là một người thu thập phế phẩm, mỗi ngày đều có thể thu được rất nhiều phế phẩm người khác vứt đi, bên trong có cả bức họa của Phó Thanh Sơn, ta thật sự không muốn biết cũng khó a!”
Diệp tuệ lan thở gấp, nhưng nàng ngoại trừ múa đao lộng thương ra, đối với cầm kỳ thư họa thì dốt đặc cán mai, cũng không chắc Lục Triển Đình nói là thật hay giả, nghĩ đến mình ngưỡng mộ tài vẽ tranh của tài tử sở thị cư nhiên bị người đem làm rác rưởi vứt bỏ, nàng vừa xấu hổ vừa phẫn nộ.
Lục Triển Đình ngồi xuống lại trước bàn, mở lồng gắp lên thử miếng đầu tiên. Y cắp đũa, nhăn mặt nói: “Cá trích hấp này nhiệt cũng không tệ lắm, tiếc là lồng hấp quá mức kín, hơi nước bốc lên tích tụ lại trên thân cá, bỗng dưng vô cố làm giảm bớt đi vài phần thơm ngon tự nhiên của nó.”
Y quay đầu lại nghiêm trang đối tì nữ phụ trách ăn uống nói: “Sau này nàng nói với trù tử rằng, phương thức tốt nhất là phủ lồng hấp xuống dưới sa miên, mới có thể bảo đảm ngư vị thuần khiết.”
Diệp Tuệ Lan bỗng nhiên phát hiện tên khất cái này thật là có nhiều đòi hỏi đủ làm người ta chán ghét, nàng thở phì phò đi tới ngồi xuống trước mặt Lục Triển Đình. Lục Triển Đình dường như cho tới bây giờ mới nhìn rõ mặt nàng, lại càng hoảng sợ, lập tức khôn ngoan không nhắc lại nữa. Lúc sau ăn cơm thực sự trầm mặc, Diệp Tuệ Lan phát hiện tên khất cái này khi ăn cơm, cầm đũa, gắp rau, rất nhiều động tác đều được làm cực kỳ tao nhã, hơn nữa y đối với đồ ăn cũng tựa hồ chỉ lướt qua mà thôi, thà nói y đang dùng bữa, không bằng nói y đang nếm đồ ăn. Tuy rằng Diệp Tuệ Lan đối với cầm kỳ thư họa không hiểu một chút, nhưng suy cho cùng cũng là thiên kim tiểu thư thế gia vọng tộc, nàng thuở nhỏ lại thích cùng hạ nhân quấn lấy nhau, rõ ràng rất khác biệt ở phương diện này. Nếu không phải là thói quen vài thập niên, tuyệt đối dưỡng không được động tác của tên khất cái này. Nghĩ như vậy nhưng nàng đối với tên sửu bát quái trước mắt này không có cơ sở nào ngoài vài phần nhận thức cũng như hiếu kỳ, nàng rất nhanh lại phát hiện chung quy y tựa hồ đang cười, thoạt nhìn là một người thực sáng sủa, thế nhưng khi y không cười hoặc trầm mặc, sẽ phát hiện trong ánh mắt luôn có một chút ưu thương.
Lục Triển Đình cơm nước xong, sờ sờ bụng tủm tỉm cười nói: “Rượu đủ cơm ăn no, có thể đi xem cha nàng một chút rồi.”
Dường như Diệp Tuệ Lan mới từ trầm tư bừng tỉnh trở lại, thuận miệng ân một tiếng. Hai người ra thiên thính, ngoài thính khẩu có hai thanh nhuyễn y, Diệp Tuệ Lan đi đến ngồi xuống, Lục Triển Đình ha ha cười nói: “Ăn no không đi hai bước làm sao đi, ta đi được rồi, nàng ngồi đi!”
Hai người đi một chặng đường ước độ một nén hương, dọc theo đường đi Lục Triển Đình giống như kiểu dạo chơi nhàn hạ. Khi vào một viên tử, biển hiệu viên tử đề là Trúc Tâm viên, cảnh sắc trong viên tử quả nhiên so với bên ngoài cực kỳ khác lạ thú vị.
Bốn phía trồng đầy tre trúc, với nhiều chủng loại: Quy giáp trúc, Thật tâm trúc…v..v.. Đường trúc là chính, gần phụ cận song linh một bên trồng Kim Tương Ngọc, Trúc Kiền Chỉnh Thể Kim Hoàng, mỗi đoạn có một cái lục đạo nhân, lần lượt đan xen với hai đoạn lục đạo nhân mà sinh trưởng. Còn lại một bên là Tùng Ngọc Nạm Vàng, Trúc kiền xanh biếc, mỗi đoạn lại được khảm một cái hoàng đạo nhân. Hai bụi Trúc tử cực kỳ trân quý tôn lên một cảm giác hứng thú, Lục Triển Đình thuận tay ngắt một lá trúc đặt ở chóp mũi, khẽ hít một hơi.
Từ trong phòng có một nữ hầu đi ra, trong tay nàng bưng một chén bã dược, thấy Diệp Tuệ Lan đứng ngoài cửa liền hành lễ.
“Phụ thân uống thuốc này tốt lên nhiều không?” Diệp Tuệ Lan hỏi.
“Hồi tam tiểu thư, thuốc lão gia uống cũng không ít, nhưng lại không thấy hiệu quả. Như trước ngực bí hụt hơi, đầu váng mắt hoa, ăn uống cũng kém, nhiều ngày trước dược phòng có kê một ít thuốc bổ sắc cách thủy cho lão gia uống, sắc mặt cũng không có gì thay đổi.”
Lục Triển Đình chìa ngón tay thấm một ít nước dược bỏ vào trong miệng, nói: “Lão gia nhà các ngươi đã mắc bệnh bao lâu?”
“Hơn mười năm, không biết đã uống bao nhiêu thuốc rồi.”
“Cha ta xưa nay biết quý trọng thân thể, trước kia cho dù không có vấn đề, cũng sẽ uống một ít thuốc điều trị, mùa đông Hạ Chí, chúng ta chưa bao giờ quên phải tẩm bổ cho người. Ngươi nói cha ta có phải cũng trúng loại độc gì đó giống Tiểu Tứ Tử không?”
Lục Triển Đình không đáp mà đẩy cửa vào phòng, thấy bên trong có một lão nhân gầy yếu trơ xương đang hôn mê nằm trên giường. Y vươn tay bắt mạch một lát, rồi mới bảo Diệp Tuệ Lan lấy tất cả toa thuốc đã từng kê qua đem đến, y mở ra xem, mãi đến khi lên đèn, mới ăn cơm nước một chút, sau đó lại xem toa thuốc chồng chất như núi kia.
Y thấy trên toa thuốc ban đầu có một số chữ đỏ phê duyệt, Diệp Tuệ Lan nói với y đây là lúc trước lão gia Diệp gia đánh giá toa thuốc này khi tinh thần tốt lắm, nghe đâu Diệp lão gia cũng là một người thông hiểu y thuật. Lục Triển Đình nghe xong mỉm cười, sau đó hỏi thăm một chút về khẩu vị ưa thích của Diệp lão gia tử.
Một người nhìn qua nghèo túng đến mức tận cùng như vậy, nam nhân vừa xấu lại bẩn lật từng trang duyệt từng cái cư nhiên lại hài hòa như thế, Diệp Tuệ Lan đối với y đột nhiên sinh ra một loại ham muốn tìm tòi mãnh liệt.
Gần nửa đêm, Lục Triển Đình mới buông hồ sơ, ngáp nói: “Phụ thân nàng bệnh tật lâu năm, ta không dám cam đoan khẳng định có thể trị được cho hắn. Nhưng nếu nàng muốn ta chữa cho hắn, đầu tiên phải đáp ứng ta hai điều kiện.”
“Hai điều gì?” Diệp Tuệ Lan buột miệng nói.
“Thứ nhất, ta phải dọn vào Trúc Tâm viên ở cùng phụ thân nàng, ba tháng trong đó trừ ta ra, không được người nào bước vào Trúc Tâm viên……”
“Ngươi nói gì?” Diệp Tuệ Lan không chút nghĩ ngợi một mực từ chối, nói: “Lâu này phụ thân ta đã quen được người hầu hạ, ta sao có thể yên tâm đem người giao cho tên sửu bát quái ngươi chứ?”
Lục Triển Đình cười, làm một cái vái chào thật sâu, nói: “Ta đây đã có thể không giúp được gì.” Y vừa nhỏm dậy, Diệp Tuệ Lan liền duỗi tay ngăn y lại, cắn răng nói: “Ta dựa vào gì để tin sửu bát quái ngươi?”
Lục Triển Đình nghe xong, giống như cảm thấy đó là một lý do mặc dù không hề buồn cười nhưng cũng không khỏi nhe răng cười. Diệp Tuệ Lan không kiềm nổi có chút ngẩn người, nụ cười kia thoạt nhìn có một chút lười nhác dẫn theo một chút dửng dưng, Lục Triển Đình cười nói: “Kỳ thật ta cũng thường khuyên người khác không cần tin tưởng ta.”
Diệp Tuệ Lan lặng yên hồi lâu, mới nói: “Hai tháng!” Nàng thấy mặt Lục Triển Đình lộ vẻ hết sức ngạc nhiên, thì có chút không cam lòng lẩm bẩm nói: “Hai tháng sau, đại ca ta trở về, ta sẽ không làm chủ được.”
“Hảo, hai tháng thì hai tháng.” Lục Triển Đình cười, lại nói: “Ta còn có điều kiện thứ hai…… Nếu cha nàng tốt rồi, ta muốn rời đi, một trăm lượng bạc nàng phải nhớ kỹ cho ta, mặt khác không được với bất luận kẻ nào nhắc tới ta, cũng lại không thể đến tìm ta.”
Diệp Tuệ Lan khinh thường nói: “Chờ thực có ngày như thế, ta ước gì ngươi sớm biến đi, vừa xấu vừa hôi lại vừa bẩn.”
“Thành giao!” Lục Triển Đình mỉm cười nói.
Cũng không cách một ngày, hành động của Lục Triển Đình thiếu chút nữa làm Diệp Tuệ Lan hủy giao ước, y vừa không mở lời muốn một ít dược liệu quý hiếm, lại không muốn một số dụng cụ đặc thù nào, nhưng lại muốn một sọt quýt Cửu Giang thượng đẳng nhất, đồng thời cần một đống sách lớn. Một vài gia nô âm thầm giám thị nói với Diệp Tuệ Lan rằng, cả ngày Lục Triển Đình cứ thế nằm ở trong viện, vừa ăn quýt vừa đọc sách, vỏ quýt vứt trên bàn, còn thư sách xem qua thì ném xuống đất.
Cách khoảng mười ngày sau, gia nô lại trở về nói với Diệp Tuệ Lan, vậy là Lục Triển Đình cuối cùng cũng mở miệng muốn thảo dược, có điều chỉ cần một gốc cây cam thảo, nói là hai ngày nay y nằm trong viện bị lạnh một chút, có chút ho, muốn một ít cam thảo đến để bổ phế. Diệp Tuệ Lan nhất thời cảm thấy mình đã muốn nhẫn nại tới cực điểm rồi, nàng cố ý mang roi theo muốn đi giáo huấn một chút tên vô lại này. Đi đến Trúc Tâm viên, lại cảm thấy chính miệng mình đã chấp thuận, hiện giờ đừng nói hai tháng, dù có là hai cái mười ngày cũng không được nuốt lời, lại có một chút mất mặt, trong lòng vừa bực bội vừa hối hận. Nàng nghĩ một chút, bản thân rốt cuộc trèo lên trên tường lén lút nhìn trộm.
Lục Triển Đình quả nhiên ở giữa đình viện, sắc trời đã tối muộn nhưng y lại không quay về phòng, mà đang ngồi ôm hai đầu gối co lại trên y tử, đầu y khi đó chôn vùi thật sâu giữa hai đầu gối. Tư thế ấy không biết vì sao lại làm cho tính khí của Diệp Tuệ Lan thoáng cái tan biến vô ảnh vô tung, nàng đứng một lát, bỗng nghe được tiếng nức nở đứt quãng mỏng manh, nàng cẩn thận lắng nghe một hồi thì mới hiểu rằng, Lục Triển Đình đang kiềm nén khóc thút thít.
Gia nô Diệp gia thấy Diệp Tuệ Lan diện vô biểu tình trở về, vội vàng hỏi xử trí tên khất cái kia thế nào. Diệp Tuệ Lan chỉ thản nhiên phân phó một câu, sau này không cần lại đi giám thị, liền để bọn hạ nhân không hiểu ra sao ở lại còn mình thì bỏ đi mất.
——————–
Chú thích:
[1] Nguyên văn là: xa thuyền điếm cước nha, vô tội dã cai sát – 车船店脚牙, 无罪也该罚
Giải nghĩa: xa thuyền điếm cước nha
Ngoài ” nha – 衙” ra cũng có dùng ” nha – 牙”: nha thương, là cò trung gian môi giới mua bán hàng hóa.
Đó là tên gọi chung trước đây của vài loại người. Bởi trong những loại người này thường có một số người xấu giết người cướp của, lưu manh vô lại, cho nên có câu tục ngữ này.
Vậy, ” xa thuyền điếm cước chân nha” là gì? Vì sao ” vô tội dã cai sát”?
Đó đều là những người có mức sống thấp nhất, tồn tại ở tầng lớp thấp nhất.
Vì kiếm tiền không từ bất cứ việc xấu nào.
Bất luận thị phi, không có tín ngưỡng.
Vì đạt được mục đích, không từ thủ đoạn.
Nếu họ bàn về đạo đức, họ nhất định bị tổn hại.
Nếu họ bàn về công bình, họ nhất định bị áp bức.
Khi bọn họ tổn hại người khác nhất định sẽ dương dương tự đắc.
Khi bọn họ chiếm cường thế nhất định giở mọi mánh khóe.
Đối nhân xử thế không thể hết mức tàn bạo, người hung hãn tàn bạo chính là tội nhân.
Một ý khác đó là chính sách ” Tam quang”: đốt sạch, giết sạch, cướp sạch.
Muốn biết nhiều hơn về ” xa thuyền điếm cước chân nha” các bạn có thể tìm hiểu thêm
[2] Tết Trùng Dương hay còn gọi là tết Trùng Cửu, mùng 9 tháng 9 âm lịch.
Tết này bắt nguồn từ sự tích của đạo Lão. Thời Hán, có người tên gọi là Hoàn Cảnh, đi học phép tiên. Một hôm thầy bào Hoàn Cảnh khuyên mỗi người trong nhà nên may một túi lụa đựng hoa cúc, rồi lên chỗ cao mà trú ngụ. Quả nhiên, ngày Chín tháng Chín có lụt to, ngập hết làng mạc. Nhờ làm theo lời thầy, Hoàn Cảnh và gia đình thoát nạn.
Từ xưa, nho sĩ nước ta đã theo lễ này, nhưng lại biến thành cuộc du ngoạn núi non, uống rượu cúc – gọi là thưởng Tết Trùng dương.
Tết Trùng Dương (Trùng Cửu) còn có một cách nói khác là ‘Từ thanh’, chính là ‘tạm biệt thảm cỏ xanh’. Sau ngày Trùng Cửu là mùa đông, cây cối không có sức sống, không thích hợp để đi chơi ở vùng ngoại ô. Vì thế, tết Trùng Cửu là cơ hội đi chơi sau cùng của mọi người khi thời tiết sang đông.
Thành phố Thái An của tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc nằm ở chân núi Thái Sơn. Vào tết Trùng Cửu hằng năm, nơi đây thường tổ chức cuộc thi leo núi, thu hút nhiều người đến tham gia. Hơn 2.000 năm qua, núi Thái Sơn được xem là núi thần, là nơi tế lễ của hoàng đế thuộc nhiều triều đại phong kiến Trung Quốc. Núi Thái Sơn còn có tên là Đông Nhạc, được xem là thánh địa của Đạo giáo và Phật giáo.
Người dân Trung Quốc thường tổ chức leo núi vào ngày tết Trùng Cửu.
Ở một số thành phố ven biển phía Nam Trung Quốc, việc làm quan trọng trong ngày Trùng Cửu không phải là leo núi hay ngắm nhìn hoa cúc, mà là cúng tế thần linh.
Ma Tổ là nữ thần biển được người Trung Quốc phụng thờ. Ma Tổ là từ địa phương, được sử dụng phổ biến ở phương Nam Trung Quốc dùng để chỉ người phụ nữ lớn tuổi. Nữ thần biển Ma Tổ có tên thật là Lâm Mặc. Tương truyền, năm 8 tuổi, bà đã dùng phép tiên cứu cha thoát khỏi cơn sóng hung tợn khi ông ấy đánh bắt cá ngoài biển khơi. Từ đó, bà đã cứu nhiều người gặp nạn trên biển. Bà qua đời ở tuổi 28. Để những thương nhân và người dân yên tâm đi lại trên biển, quan phủ đời Tống đã cho dựng tượng nữ thần biển và người được chọn là Ma Tổ.
Ngày nay, người dân Trung Quốc đã gửi gắm một ý nghĩa mới cho ngày tết Trùng Cửu. Năm 1989, Trung Quốc xem tết Trùng Cửu là tết của người già. Như vậy, ngày 9 tháng 9 vừa bao gồm ý nghĩa vốn có của ngày tết Trùng Cửu truyền thống vừa biểu đạt lòng tôn kính người già của mọi người, chúc các cụ mạnh khỏe, sống lâu.
Tết Trùng Cửu cũng là tết của người già
Không ngừng phát triển trong hàng ngàn năm qua, tết Trùng Cửu của người Trung Quốc đã mang thêm nhiều ý nghĩa mới. Nhưng dù mang ý nghĩa gì thì ngày 9 tháng 9 hàng năm vẫn là ngày lễ truyền thống mong đợi của bao người Trung Quốc.
[3] bùa ngải:
Bùa ngải dán trước cửa nhà trừ tà
[4] Trùng Dương cao: Vào dịp tết Trùng Cửu, người ta còn làm loại bánh mang tên ‘bánh Trùng Cửu’. Loại bánh này bắt nguồn từ những nơi không có núi. Trong tiếng Hán, bánh ngọt gọi là “cao điểm” – trong đó, “cao” nghĩa là bánh. Chữ ‘cao’ này phát âm trùng với chữ “cao” trong từ “đăng cao”, có nghĩa là lên cao. Vì vậy, mọi người cho rằng, ăn bánh Trùng Cửu còn có thể thay thế cho việc lên núi cao. Ở nhiều khu vực không có núi non, việc chế biến bánh Trùng Cửu đã kết hợp hài hòa với thói quen ẩm thực các vùng, miền, làm xuất hiện nhiều dạng bánh. Không chỉ nguyên liệu sử dụng khác nhau mà ngay cách chế biến cũng khác nhau và vì thế, mùi vị của bánh sẽ khác nhau.
Bánh Trùng Cửu đã kết hợp hài hòa với thói quen ẩm thực của các vùng miền
Ở nhiều nơi, người ta cắm thêm cây cờ giấy màu đỏ trên bánh Trùng Cửu. Theo sử sách ghi chép, bánh có gắn cờ được dành cho người đi học với hy vọng người ăn sẽ thi đỗ trạng nguyên, thăng quan phát tài.
Trùng Dương cao
[5] cây bán hạ: ngoại trừ tính độc hại ra các bạn tham khảo
Bán hạ
Phần này chị Hương sử dụng điển tích của một vị thầy thuốc nhà Thanh – Ngô Cúc Thông, ông thường hay đeo một túi sinh khương bên mình chữa bệnh cứu người.
[6] sinh khương: gừng tươi.
[7] bạch phàn: phèn chua.
Bạch phàn
[8] bạch thố: giấm trắng
[9] 1 công khoảnh = 1 hecta.
Dương Châu (giản thể: 扬州, phồn thể: 揚州; bính âm: Yángzhōu là một thành phố trực thuộc tỉnh của tỉnh Giang Tô, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Nằm bên bờ bắc sông Dương Tử, Dương Châu giáp tỉnh lỵ Nam Kinh về phía tây nam, Hoài An về phía bắc, Diêm Thành về phía đông bắc, Thái Châu về phía đông, và Trấn Giang qua sông về phía nam.
Ẩm thực Trung Quốc bao gồm 8 trường phái lớn đó là: Sơn Đông, Quảng Đông, Tứ Xuyên, Hồ Nam, Phúc Kiến, Chiết Giang, Giang Tô và An Huy.
Giang Tô nổi tiếng với các món hấp, ninh, tần. Người Giang Tô chú trọng về đảm bảo nguyên chất nguyên vị, bởi vậy các món ăn ở đây mang hương vị thanh ngọt tự nhiên.Thịt và thịt cua hấp là những món nổi tiếng nhất ở đây.
Thanh chưng tức ngư – Cá trích hấp
Thanh đôn ngư sí – vi cá hầm
Hàng Châu thuộc Giang Nam, thủ phủ của tỉnh Chiết Giang
Gồm các món ăn của Hàng Châu, Ninh Ba, Thiệu Hưng nhưng nổi tiếng nhất vẫn là các món ăn Hàng Châu. Hương vị ẩm thực Chiết Giang tươi mềm, thanh đạm mà không ngấy. Có tiếng nhất là tôm nõn Long Tĩnh và cá chép Tây Hồ.
Tôm nõn Long Tĩnh