Merkin bất thình lình buông ra một câu: “Mười mấy năm nay, thật vất vả cho mày rồi, Max.”
Max dương dương đắc ý nói: “Không vất vả so với những gì tôi giành được, miễn cưỡng cũng xem như tương đương rồi.”
Chẳng ngờ ngữ khí của Merkin lại đột ngột biến đổi: “Ông chủ mày đi theo mười mấy năm, mày nói phản bội là phản bội luôn, không biết mày định đi theo ông chủ mới bao lâu rồi phản hắn hả?”.
Max giận tím mặt, giơ báng súng đập mạnh vào trán Merkin một cú, làm rách toác một mảng lớn, máu chảy ròng ròng xuống theo gò má, liền sao đó, họng súng lại gí sát sạt vào đầu đối phương, cánh tay hắn khẽ rung lên nhè nhẹ. Max nghiến răng kèn kẹt nói: “Ông chủ đừng ép tôi nổ súng đấy.”
Merkin bị đau vậy mà còn phá lên cười. Mục đích của y đã đạt được rồi, Max và Khafu dám hung hăng càn quấy như vậy chứng tỏ kẻ ở đằng sau sách động bọn chúng nhất định có mặt ở đây, hắn ta cũng trà trộn vào đám lính đánh thuê như Lữ Cánh Nam vậy, chỉ là hiện giờ y vẫn chưa nhận ra được mà thôi.
Merkin tiếp tục gỡ bỏ vũ khí trên người, vừa gỡ vừa nói: “Max, mày chỉ là một thằng chạy vặt nhãi nhép, vĩnh viễn cũng chỉ có thể làm chân sai vặt mà thôi. Mày nhảy ra quá sớm, lại không thể khống chế được cảm xúc của mình, mày hung hăng quá rồi đấy. Tao nghĩ, ông chủ mới của mày hẳn là không vui đâu.”
Câu nói này không ngờ lại uy hiếp được Max, khóe môi hắn khẽ giật giật, như thể bị tạt cho nguyên một chậu nước lạnh vào đầu, gương mặt lập tức tắt ngay vẻ huênh hoang ngạo nghễ.
Merkin càng thêm khẳng định, kẻ chủ sự phía sau chắc chắn ở trong đám người này. Y tiếp tục hờ hững buông lời: “Tao cho mày một tiên đoán nhé, kết cục của mày chắc chắn còn thảm hơn tao nhiều!”.
“Câm miệng!” Max ghìm giọng xuống thấp, nhưng vẫn không kìm được tiếng gầm gừ khản đặc trong họng.
Merkin đã cởi hết trang bị trên người xuống, lúc này, tuy y không đến nổi trùng trục như Soares, song cũng chẳng hơn là mấy. Hai bàn tay y co lại thành hình khẩu súng, lướt qua chỗ bọn lính đánh thuê, chầm chậm vạch thành hai đường cong, lớn tiếng nói: “Tao biết mày đang ở đây! Mặc kệ mày là ai, mày đã chơi được Ben Merkin này rồi đấy! Tao khâm phục! Nhưng hãy nhớ cho kỹ! Chỉ cần tao còn một hơi thở thì cả đời này mày sẽ không được yên thân đâu!”
“Đi đi, lúc này còn nói những lời dọa dẫm ấy chỉ càng biểu lộ nỗi sợ hãi và bất lực trong tâm anh mà thôi, giống như lũ súc sinh kêu gào thảm thiết trước lúc chết vậy, chỉ tổ làm nhục thân phận và trí tuệ của anh chứ ích gì.” Không giống Max, Khafu từ đầu chí cuối vẫn luôn khóa chặt Merkin , còn Merkin thì đến giờ mới nhận ra mình chưa bao giờ hiểu hết được kẻ này. Merkin quay đầu lại, nhìn Khafu với ánh mặt thất vọng cực độ, thở dài nói: “Tôi vốn tưởng rằng, anh là người đáng đế tôi tin tưởng.”
Khafu lắc đầu nói: “Anh tin tưởng ai chứ, Ben? Nhớ Soares chứ?”
Merkin tự cười giễu, y rốt cuộc đã hiểu, năng lực điều khiển thú vật của Soares trở nên thất thường, hẳn có liên quan rất lớn với hai kẻ này; “Không xử bắn tôi luôn sao? Con định dẫn tôi đi đâu nữa?”.
Max cười khì khì nói: “Cường Ba thiếu gia đã đi dò đường cho ông rồi còn gi? Giờ chúng ta đưa ông đi đoàn tụ với hắn thôi.”
Cuối cùng Merkin cũng đổi hẳn sắc mặt. Từ đây rơi xuống không hiểu gã có chết ngay không, hay là sống dở chết dở chờ đợi tử thần đưa đi trong bóng tối, hoặc giả bên dưới kia là một lớp côn trùng lúc nhúc, đang đợi cắn xé máu thịt tươi rói của y. Con người ta sợ nhất những gì mình chưa biết, Merkin cũng không phải ngoại lệ. Nhưng y là kẻ tâm tính cực kỳ kiên cường, sau khi biết được cái chết đối phương dành cho mình, sắc mặc chỉ thoáng biến đổi trong khoảnh khắc rồi tức khắc khôi phục lại vẻ bình thường ngay. Bên mép giếng tế, y thả mình xuống, lưng buông về phía hố sâu, trước khi tầm nhìn hoàn toàn chìm xuống cái giếng đen ngòm tối tăm ấy, y trừng mắt lên với Max, lớn tiếng quát: “Để tao xem mày chết như thế nào!”.
Rốt cuộc cũng đã “tiễn đưa” Merkin xong xuôi, quả tim nãy giờ vẫn treo lửng lơ của Max giờ mới hạ xuống được, hắn gạt mồ hôi đầm đìa trên trán, rồi phá lên một tràng cười sảng khoái lạ thường. Mẫn Mẫn hoang mang nhìn Lữ Cánh Nam, thấp giọng hỏi: “Rốt cuộc là chuyện gì vậy, giáo quan?”
Lòng Lữ Cánh Nam lúc này mới thật chua chát khó tả, không thể ngờ được, Max và Khafu, hai tên trợ thủ mà Merkin tin tưởng nhất này, lại là quân cờ do kẻ ấy sắp xếp. Không hiểu sao, trong cô bất chợt trào lên một cảm giác bất lực, tựa như chính mình cũng chỉ là một quân cờ trong tay đối phương, số phận của pháp sư Á La, Mẫn Mẫn, bọn lính đánh thuê, kỳ thực đều nằm trong bàn tay khống chế của kẻ đó. Chỉ là, hắn giữ cô lại phỏng có tác dụng gì? Con người ấy, rốt cuộc hắn muốn làm gì đây? Trong đầu nghĩ ngợi vẩn vơ, Lữ Cánh Nam bất giác lại bắt đầu đưa mắt tìm kiếm trong đám người.
Tên lính đánh thuê ấy vẫn đội mũ bảo hộ, nhưng y chỉ bước lên hai bước đã nổi bật giữa đám người. Chỉ thấy thân hình y thấp hơn so với đám lính đánh thuê xung quanh một chút, nhưng khí thế lạnh lẽo thì chỉ hơn chứ không kém Merkin chút nào. Max và Khafu lập tức nhận ra đối phương. Max vội luống cuống bước lên trước, toe toét cười nói: “Thưa ngài, tôi không hiểu tại sao người không lộ diện trước mặt hắn? Nếu hắn trông thấy ngài, tôi đảm bảo sẽ sợ đến không nói nên lời cho mà xem.”
Người kia không trả lời, chỉ hơi nghiêng nghiêng đầu, ánh mắt xuyên qua lớp kính trên mũ bảo hộ bắn thẳng lên người Max, Max dường như sực nhớ ra điều gì đó, hai đầu gối bỗng mềm nhũn ra, hết sức thành thục quỳ ngay xuống, chổng mông lên cao dập đầu như giã tỏi, luôn miệng búa xua: “Thưa ngài, thưa ngài, tôi xin thề với trời, lòng trung thành của tôi có trăng sao làm chứng. Tên Merkin ấy chỉ toàn vu oan giá họa cho tôi thôi, hắn đố kị tôi, hắn đố kị tôi có thể giành được sự tín nhiệm của ngài, hắn muốn chia rẽ quan hệ nô bộc và chủ nhân vĩnh viễn không bao giờ thay đổi giữa tôi và ngài. Ngài tin tưởng tôi mà, ngài tin tưởng tôi đúng không, tôi xưa ngay luôn thờ ngài…”
Cũng không hiểu vì tư thế của Max quá khó coi, hay những lời hắn nói quá tởm lợm buồn nôn, tên lính đánh thuê kia đột nhiên “pằng” một tiếng, cho y một viên đạn giữa trán, động tác hết sức dứt khoát, gọn gàng. Nụ cười thở lợ vẫn còn đông cứng trên khuôn mặt Max, chỉ có đôi mắt kinh hoảng là hơi biến đổi, hắn chầm chậm nghiêng người lăn ra đất. Đôi mắt trống rỗng nhìn xuyên qua khe núi, trừng lên với trời xanh mây trắng phía bên ngoài. “Sao có thể vậy được? Sao lại như vậy? Ta vừa mới lộ mặt, ta vẫn còn cả tương lai rộng mở, vậy mà đã kết thúc rồi sao? Đơn giản … như vậy thôi sao …” Oán niệm của Max phảng phất như hóa thành một quầng mây xoắn xuýt nơi chân trời, dày đặc không thể nào tan đi được.
Bấy giờ, tên lính đánh thuê mới gỡ mũ bảo hộ xuống, chẳng buồn liếc mắt nhìn cái xác Max dưới đất lấy một lần, tựa hồ cái đống thù lù trước mặt y chẳng có gì đáng để vào mắt cả, chỉ như một đống bụi đất mà thôi. Y trầm ngâm giây lát, rồi nói với các xác ấy: “Mày nói đúng lắm, Merkin hắn chỉ nói bừa thôi, nhưng thật đáng tiếc, trí tuệ của mày và ông chủ cũ của mày hoàn toàn không thuộc cùng một cấp độ. Hắn chỉ cần một câu là đủ khiến giữa chúng ta nảy sinh e dè lo ngại, đã chôn xuống hạt giống có thể nảy mầm thành oán giận rồi. Đằng nào cũng thế…chi bằng đặt một dấu chấm hết cho đơn giản. Lần sau đầu thai làm người, tốt nhất nên thông minh một chút.”
Dứt lời y quay sang bảo Khafu: “Hành động theo kế hoạch”. Khafu lập tức chỉ huy hai tên lính đánh thuê thay y phục cho Max. Biến hóa xảy đến quá nhanh và bất ngờ, bọn lính đánh thuê còn lại đều ngần ngừ do dự, vẫn chưa hiểu chuyện gì đang xảy ra. Sao Max lại bức tử Merkin, để rồi chính hắn lập tức bị một kẻ lạ hoắc làm thịt luôn, người này là ai? Sao Khafu lại nghe lệnh y? Lúc này, Khafu mới bảo bọn lính đánh thuê: “Đây mới là ông chủ thực sự của chúng ta, những gì Merkin hứa cho chúng mày ông chủ sẽ trả không thiếu một xu, hơn nữa, chúng mày cũng nên biết là, thuốc nổ trên người chúng mày, phải nhờ ông ấy mới gỡ ra được đấy.”
Tên lính đánh thuê ấy cuối cùng cũng quay đầu lại. Mái tóc y đen bóng, cắt ngắn dựng đứng lên, trên mặt lại bôi một lớp màu hóa trang rất dày, khiến người ta không nhìn rõ được tướng mạo thực sự. Có điều, Lữ Cánh Nam cũng lờ mờ nhận ra, gương mặt ấy dường như còn trẻ hơn cả Nhạc Dương và Trương Lập, có nét hoang dã thô hằn của người dân tộc du mục miền tái ngoại. Rõ ràng y đang cười, nhưng Lữ Cánh Nam nhìn ánh mắt y lại dâng lên một thứ cảm giác khiến cô rùng mình phát lạnh từ tận đáy lòng. Đôi mắt đen tuyền ấy toát lên một vẻ u uất nồng đậm, dường như cô đã gặp ánh mắt ấy ở đâu rồi thì phải, nhất định là đã thấy ở đâu đó! Cô đột nhiên nhớ đến một chuyện khác, đối phương từng nói với cô rằng: “Merkin chỉ là một con tốt thí mà thôi…giống như cô vậy…”
Bên cạnh Merkin là Khafu và Max, còn bên cạnh cô, hoặc là bên cạnh Trác Mộc Cường Ba…ánh mắt cô lập tức đanh lại, lạnh buốt, quay ngoắt sang Mẫn Mẫn. Mẫn Mẫn đang run lên bần bật!
Có một người chú ý đến trạng thái của Mẫn Mẫn sớm hơn cả Lữ Cánh Nam. Đó là pháp sư Á La. Từ khi tên lính đánh thuê đó bước ra, toàn thân Mẫn Mẫn đã không kìm chế nổi mà run lên lẩy bẩy. Pháp sư Á La chỉ khe khẽ thở dài, song không nói gì cả.
Nhưng Lữ Cánh Nam thì khác, cô không thể đè nén cảm xúc của mình. Cô bỗng cảm thấy thật không đáng thay cho Trác Mộc Cường Ba: “Cô! Chính là cô! Đúng là cô!” Giọng Lữ Cánh Nam bỗng trở nên cao gắt, âm điệu pha lẫn cả vẻ điên cuồng. Mẫn Mẫn vẫn đang run lên bần bật, chỉ là trên gương mặt đã có thêm hai vệt nước, từng giọt từng giọt lệ như hạt ngọc trai tuôn trào ra khỏi khóe mắt.
“Ồ, ồ, ồ, làm sao vậy chứ? Đều là người nhà cả mà, hà tất phải làm cho nhau không vui vậy chứ?” Tên lính đánh thuê ấy vung tay lên, đẩy Lữ Cánh Nam về phía pháp sư Á La và Mẫn Mẫn.
Lữ Cánh Nam vẫn rít lên the thé: “Tại sao, tại sao cô lại làm thế? Cho dù tất cả mọi người trong đội chúng ta phản bội anh ấy, thì cô cũng không thể nào phản bội anh ấy được! Cô có biết không, mạng của cô chính là do anh ấy hết lần này đến lần khác, đổi về bằng tính mạng của chính mình đấy! Cô có biết hay không hả?”
Tiếng gào the thé của Lữ Cánh Nam dội đi dội lại trong khe núi trống trải, nếu không có pháp sư Á La đứng chắn giữa hai người, không khéo Lữ Cánh Nam đã lao lên giật tóc Mẫn Mẫn đập đầu vào tường như một mụ đàn bà đanh đá ngoài chợ rồi. Tiếng hét phát xuất tự trong sâu thẳm tâm hồn ấy đã xé toang những vết thương trước giờ cô vẫn lẳng lặng dùng nước mắt hàn gắn lại. Trong khoảnh khắc này, cô chẳng còn nghĩ đến chuyện gì nữa.
Mẫn Mẫn bị khí thế cũa Lữ Cánh Nam làm cho hoảng sợ, liên tiếp giật lùi mấy bước liền, ôm mặt nấc lên nghẹn ngào: “Đừng nói nữa, cầu xin cô đừng nói nữa!”
Tên lính đánh thuê kia lấy làm thích thú quan sát cảnh tượng ấy, nào ngờ, tình thế lại biến đổi trong chớp mắt. Lữ Cánh Nam vừa mới nổi cơn điên loạn mắng chửi Mẫn Mẫn không tiếc lời, bất thình lình đạp mạnh chân bật người về phía sau. Pháp sư Á La nãy giờ im lìm không lên tiếng chợt lách người lướt lên chắn trước mặt Lữ Cánh Nam, vận tốc toàn thân làm bật tung sợi dây thừng trói chặt hai tay mình ra, rồi tung mình như đại bàng sải cánh giữa tầng mây, lộn nhào mấy vòng trên không trung, tăng tốc lao bổ xuống tên lính đánh thuê kia như chim ưng vồ thỏ.
Khi kẻ thắng lợi tưởng rắng chiến thắng đã nắm chắc trong tay, chính là lúc y lơi lỏng tinh thần, lộ ra sơ hở duy nhất. Lữ Cánh Nam và pháp sư Á La phối hợp hết sức ăn ý, một người xông lên cướp súng của tên đứng phía sau, một người yểm hộ cho người kia, cầm chân tên lính đánh thuê lợi hại nhất ấy. Hai người đều có chung nhận định, cho rằng kẻ này chính là đối thủ đáng sợ nhất của họ, chỉ cần có thể chế phục hoặc hạ sát hắn, bọn lính đánh thuê còn lại đều không có gì đáng ngại.
Biến cố bất ngờ nảy sinh, tên lính đánh thuê sau lưng pháp sư Á La hoàn toàn không kịp phản ứng gì, chỉ thấy người phụ nữ đó lao đến trước mặt mình, bóng người lóa lên rồi tức thì biến mất, kế đó bên hông nhẹ bẫng, vũ khí đã lọt vào tay đối phương lúc nào chẳng hay.
Còn tên lính đánh thuê bị pháp sư Á La lao bổ xuống tấn công kia cũng hiểu, tuy vị sư già này không thể thực sự làm y bị thương, song một khi ông quẩn chân trong giây lát, để Lữ Cánh Nam cướp được súng, tạo thành thế gọng kìm kẹp chặt y thì muốn xử lý cho gọn ghẽ cũng tương đối phiền phức. Cũng trong khoảnh khắc Lữ Cánh Nam và pháp sư Á La đột nhiên phát động thế tấn công ấy, y nhìn thấy điểm đột phá duy nhất để bù đắp cho thế yếu của mình. Y hoàn toàn không để ý đến khí thế liều mình như chẳng có của pháp sư Á La, quyết định bỏ gần đánh xa, ngay khi Lữ Cánh Nam vừa rùn người chạm tay vào khẩu súng ngắn đeo ở thắt lưng tên lính đánh thuê kia, pháp sư Á La vừa tung mình nhảy lên, y đã lao thẳng về phía trước, xuyên qua dưới háng pháp sư Á La..
Lữ Cánh Nam vừa cầm được khẩu súng, lập tức điều chỉnh họng súng, bỗng thấy một bàn tay còn nhanh nhẹn hơn mình bội phần đặt lên thân súng, khẽ vuốt một cái. Lữ Cánh Nam cũng ngay lập tức bóp cò súng, song không nghe thấy âm thanh “lách cách” quen thuộc, mà cò súng lỏng ra như thể gãy lìa. Cô nhìn khẩu súng, không ngờ nó đã tách ra làm bốn năm phần khác nhau. Lữ Cánh Nam kinh hãi thốt lên: “Kỹ thuật tháo súng trong nháy mắt!”. Kết cấu của súng ngắn không phức tạp như nhiều người bình thường vẫn nghĩ, chỉ cần vài món linh kiện là có thể lắp thành một khẩu súng rồi, kỹ thuật tháo súng trong chớp mặt ấy Lữ Cánh Nam cũng từng chứng kiến qua, nhưng chưa bao giờ cô thấy ai thực hiện nhanh như vậy, y mới chỉ vuốt nhẹ một cái, là đã biến khẩu súng thành mấy món linh kiện rời rạc tóe xuống đất!
Tên lính đánh thuê dường như còn nhếch mép cười cười với Lữ Cánh Nam, rồi xoay người đón lấy một đấm của pháp sư Á La tung ra.
Pháp sư Á La cũng bị bất ngờ, trong suy nghĩ của ông, cao thủ chân chính thì tuyệt đối không thể chui qua dưới háng kẻ địch được, nhưng đối phương đã làm như vậy, thậm chí không một chút chần chừ do dự. Pháp sư Á La đành đảo mình xoay chuyển trên không trung, dồn hết sức lực vào nắm đấm, tranh thủ khoảnh khắc tên lính đánh thuê ra tay với Lữ Cánh Nam, tung ra một đòn toàn lực, mong sao có thể gây thương tổn cho kẻ địch!
Tên lính đánh thuê cũng hiểu muốn tháo khẩu súng trên tay Lữ Cánh Nam thì chắc chắn không thể tránh được nắm đấm của vị sư già sau lưng, mà y cũng không hề có ý định né tránh…chỉ thấy y vận lực xoay người lại, chính diện đón lấy, một đấm đổi một đấm, quyết định lấy cứng chọi cứng với đối phương một lần!
Kết quả của lần giao thủ này là… tên lính đánh thuê khẽ phủi bụi bám trước ngực, hờ hững như chưa từng có chuyện gì xảy ra, còn pháp sư Á La bị một đấm của y đánh văng ngược ra xa, loạng choạng rơi xuống cách đó ba bốn mét, cả người cuộn lại như con tôm khô.
Trông thấy cảnh tượng đó, rốt cuộc Lữ Cánh Nam cũng hoàn toàn tâm nguội ý lạnh. Cô tuyệt đối không có năng lực đơn độc đối phó với tên lính đánh thuê thần bí này, chỉ đành lách người lướt ra, định đỡ pháp sư Á La đứng dậy. Tên lính đánh thuê kia cũng chẳng định ngăn cô lại. Cả quá trình ấy chỉ diễm ra trong khoảng một hai giây đồng hồ, Mẫn Mẫn vẫn ôm mặt khóc nức nở, bọn lính đánh thuê kia vẫn chưa kịp phản ứng gì thì mọi việc đã kết thúc.
“Đại nhân Á La!” Lữ Cánh Nam đang định kéo cánh tay pháp sư Á La lên.
“Đừng chạm vào”, pháp sư Á La khó nhọc chống khuỷu tay xuống đất, tay kia ngăn Lữ Cánh Nam lại: “Gãy rồi!”
Lữ Cánh Nam bấy giờ mới phát hiện, xương lồng ngực pháp sư Á La không ngờ đã lõm hẳn vào, lẽ nào xương ngực của pháp sư bị một đấm của tên lính đánh thuê kia đánh gãy rồi ư? Sao có thể chứ? Gân cốt pháp sư Á La thế nào, Lữ Cánh Nam là người hiểu rõ nhất, vượt qua bao nhiêu cơ quan cạm bẫy nguy hiểm như thế, ông cũng chưa từng bị rạn xương lấy một lần, vậy mà một đấm của hắn…
Hai tay pháp sư Á La đè chặt lên hai đoạn xương sườn, một ấn một bật, chỉ thấy chỗ hõm vào thoắt cái đã bật trở ra, thoạt nhìn không phát hiện ra điều gì dị thường cả. Nhưng Lữ Cánh Nam biết, tuy pháp sư Á La dùng thủ ấn nối xương đặc biệt của mật giả tu khiến xương lồng ngực trở về vị trí ban đầu, song đã gãy tức là đã gãy, vết thương tuyệt đối không thể hồi phục trong thời gian ngắn được, chỉ cần trúng thêm đòn hơi nặng một chút, nội tạng của Pháp sư Á La sẽ không chịu được chấn động, lúc ấy ông sẽ chẳng khác nào phế nhân.
Pháp sư Á La ghé sát bên tai Lữ Cánh Nam khẽ nói: “Tay phải của hắn sở hữu thứ sức mạnh mà con người không thể có được.” Pháp sư Á La hiểu rõ mật độ xương cốt của mình, một người có cú đấm mạnh đến mấy cũng không thể khiến ông tổn thương đến mức này. Ông cảm thấy rất rõ ràng, thứ đánh lên lồng ngực mình là một loại vũ khí bằng sắt thép, hoặc một loại vật chất nào đó còn cứng hơn cả sắt thép. Lữ Cánh Nam ngạc nhiên ngoảnh đầu lại, chỉ thấy cánh tay phải của tên lính đánh thuê đó hoàn toàn bọc bên trong bộ đồ liền thân, không thấy có nắm đấm sắt bọc bên ngoài. Pháp sư Á La nói đó không phải là sức mạnh của con người, vậy thì là gì nhỉ?
Lúc này tên lính đánh thuê đó đã uể oải lững thững bước đến, ánh mắt y vẫn đượm một vẻ u uất khó hiểu!
“Thân thể ngưởi già lượng canxi bị thất thoát rất nhiều, dễ mắc phải chứng loãng xương, không so được với thanh niên đâu, vì vậy, ông tốt nhất không nên làm bừa thì hơn.” Nói tới đây y khẽ ho khan hai ba tiếng. Thần sắc vốn đang rất đắc ý, y bỗng bực bội lừ mắt nhìn pháp sư Á La một cái, xem ra, cú đấm của vị pháp sư già cũng không phải hoàn toàn không ảnh hưởng gì đến y.
Khafu bước đến nói với tên lính đánh thuê ấy: “Làm xong rồi”.
Tên lính đánh thuê liền gật đầu nói: “Ném xuống đi.” Lữ Cánh Nam nhìn hai tên lính đánh thuê ném cái xác Max xuống giếng tế như ném một bao cát, không hiểu chúng có dụng ý gì. Đúng lúc ấy, cô lại thấy tên lính đánh thuê đó đi tới trước mặt Mẫn Mẫn, nghiêm giọng răn đe: “Đừng khóc nữa, Cường Ba thiếu gia của cô vẫn chưa chết đâu. Lúc nào cũng vậy, chỉ biết có khóc thôi!”
Đường Mẫn nửa mừng nửa sợ, quả nhiên đã nín khóc, ngước mắt nhìn y lắp bắp: “Chưa…chưa chết?”
Tên lính đánh thuê đó cười khẩy: “Bọn chúng vẫn chưa phát huy tác dụng thực sự của mình, làm sao chết dễ dàng như vậy chứ?”
Lữ Cánh Nam và pháp sư Á La đều giật mình kinh hãi, lòng đột nhiên dấy lên cảm giác mình hoàn toàn bị người khác khống chế trong lòng bàn tay, chuyện này rốt cuộc là thế nào vậy? Kẻ này là ai? Rốt cuộc hắn muốn làm gì? Tất cả mọi sự đều do hắn ngấm ngầm thao túng hay sao?
Chỉ nghe người trẻ tuổi ấy hướng về phía bọn lính đánh thuê còn lại nói lớn: “Tao tên là Thomas, chúng mày có thể gọi tao là ngài Thomas.”
Lại nói đến Merkin, sau khi nhảy xuống giếng tế, toàn thân vừa chìm ngập trong bóng tối, y liền thấy dưới chân mình vừa dốc vừa trơn, trọng tâm cơ thể thay đổi, cảm giác như thể nhảy vào một đường ống dẫn dầu hình tròn vậy. Y trượt nhanh chóng trong đường ống, sau mấy lần chuyển hướng, thân thể liền chạm đất, lăn mấy vòng, hoàn toàn không hề sứt mẻ gì cả!
Merkin vừa đứng dậy, đột nhiên một ý nghĩ lóe lên trong óc, vội thầm nhủ: “Chết rồi!” Bản thân y nhảy xuống đây không tổn thương gì, vậy chứng tỏ rằng, Trác Mộc Cường Ba nhảy xuống trước chắc cũng không sao cả. Đối phương xuống đây trước y, nói không chừng đã thích ứng với địa hình và bóng tối ở đây rồi. Vừa nãy, lúc y rơi xuống phát ra âm thanh, chắc chắc đã khiến đối phương chú ý đến. “Gượm đã, liệu hắn có tưởng ta là Mẫn Mẫn hay lão lạt ma già kia hay không nhỉ? Không, nếu vậy, hắn sớm đã lên tiếng hỏi han rồi. Sao hắn đoán được kẻ rơi xuống là ta nhỉ? Thôi chết, tiếng quát lúc nãy ta nhảy xuống hố, chắc chắn đã bị hắn nghe thấy rồi!”
Merkin thầm kêu khổ trong lòng, giờ đây y tay không tấc sắt, sức mạnh và tốc độ đều tương đương với Trác Mộc Cường Ba, nhưng Trác Mộc Cường Ba lại có ưu thế của kẻ đến trước, đúng như lời gã nói trước khi bị đẩy xuống hố, gã đã dò đường trước rồi. Tim Merkin bỗng chốc đập thình thịch.
“Trác…Trác Mộc…Cường Ba…Cường Ba thiếu gia…” Merkin hướng về phía bóng tối, dè dặt gọi hai tiếng.
“Hừ!” Trong bóng tối vẳng lại tiếng hồi đáp, không hiểu là tiếng cười gằn lạnh lẽo, hay là tiếng gầm gừ tức giận.
OAN GIA NGÕ HẸP
Có phản ứng, vậy thì dễ rồi, Merkin tự cảm thấy về phương diện đàm phán thì mình cũng khá. Y vừa mở miệng thì đã buông ra một câu tục ngữ Trung Quốc, thở dài than: “Ài…oan oan tương báo đến bao giờ mới dứt.”
Ngưng một hồi lâu, không thấy phản ứng. Không gian tăm tối chìm trong sự tĩnh lặng chết chóc.
“Ừm, ừm,” Merkin khẽ đằng hắng mấy tiếng, đổi giọng hòa dịu hơn chút nữa, “kỳ thực, giữa chúng ta chẳng có thù hận gì đến nỗi không thể hóa giải được, tất cả đều bắt nguồn từ một hiểu lầm đẹp đẽ mà thôi.” Rõ ràng đây là giọng điệu Max vẫn hay xoen xoét nói ra, Merkin vừa mở miệng, bản thân cũng cảm thấy da gà gai ốc nổi lên khắp người.
Trác Mộc Cường Ba đã không muốn nghe đối phương huyên thuyên nữa: “Nói xem, ngươi muốn chết như thế nào đây?”
Merkin nghe giọng điệu ấy, lập tức nổi khùng lên: “Trác Mộc Cường Ba, tao đã hạ mình thương lượng với mày rồi, mày còn muốn gì nữa chứ? Mày tưởng tao sợ mày chắc, chưa biết ai chết trong tay ai đâu!” Ngoài miệng hung hăng như vậy, nhưng hai chân y đã lặng lẽ dịch sang một bên.
“Trốn đi đâu chứ? Tưởng rằng có thể trốn được ta chắc?” Trác Mộc Cường Ba vạch trần ý đồ của Merkin, gã sống chung với bầy sói một thời gian khá dài, từ lâu đã học được cách không cần dùng mắt cũng có thể tìm kiếm mục tiêu trong bóng tối rồi.
Đối với Merkin, Trác Mộc Cường Ba càng lúc càng trở nên cao thâm khó dò, trong lòng y lấy làm kỳ quái, “Được bao lâu rồi chứ, tên Trác Mộc Cường Ba này từ một gã thương nhân lột xác thành một tên lính đặc chủng rồi, tiến bộ dường như hơi quá nhanh thì phải!”
“Khục, khục.” Trác Mộc Cường Ba lại phát ra mấy tiếng cười gằn lạnh lẽo.
Có điều, tiếng vọng trong căn phòng tối tăm này rất lớn, căn bản không thể dựa vào tiếng động để phán đoán vị trí của đối phương được. Merkin chỉ nghe âm thanh trong bóng tối kia cất lên lần nữa: “Có đạo thì được nhiều người giúp, vô đạo thì cô quả một mình. Ngươi tìm hiểu văn hóa Trung Quốc cũng tỉ mỉ lắm, không biết đã nghe qua câu nói này chưa vậy? Ấy là, không phải không có báo ứng, mà là thời điểm chưa đến đấy thôi! Ông trời đã để ngươi lọt vào tay ta, đây chính là báo ứng kiếp này của ngươi đó! Đừng bảo ta không nhắc nhở ngươi, ta sẽ tấn công từ bên trái đấy!”
Lời vừa mới dứt, tiếng gió đã nổi lên, Merkin vội đưa tay phòng hộ nửa mặt bên trái, kế đó, mạng sườn bỗng đau nhói lên. Trác Mộc Cường Ba không hề nói nhất định phải tấn công vào mặt y. Đến khi nắm đấm của Trác Mộc Cường Ba bổ xuống thân thể mình, Merkin mới bắt đầu phản kích: chặn, gạt, đỡ, phản công, hai người trao đổi mấy cú đấm trong bóng tối, chỉ nghe tiếng “bịch, bịch” vang lên, đòn nào cũng trúng vào da thịt. Sau đó, cả hai lại tách ra, Trác Mộc Cường Ba lẩn vào trong bóng tối, Merkin không tìm được gã, đành nghiến răng kèn kẹt vì đau. Dẫu sao trong gian phòng tối om này cũng không có ai khác, y khỏi sợ bị mất mặt.
Merkin biết, Trác Mộc Cường Ba cũng phải ăn mấy đấm, có điều không cú nào đánh trúng chỗ yếu hại, mà chỉ toàn đánh vào cơ bắp, phen này đúng là y đã thiệt to.
“Lần này đổi sang bên phải!” chỗ đau của Merkin còn chưa kịp dịu đi, Trác Mộc Cường Ba đã lại tấn công tới. Merkin vội phòng thủ phía bên phải, bỗng chân như bị khúc cây quét tới, không ngờ Trác Mộc Cường Ba lại bắt đầu tấn công từ phía dưới.
“Bốp! Bốp!” Hai người một công một thủ, Trác Mộc Cường Ba lại nhảy lùi về phía sau lặn mất vào bóng tối. Merkin ôm chặt mặt bên phải, dường như gò má đã sưng vù.
Vốn dĩ, nếu luận về thân thủ, Merkin có mấy chục năm kinh nghiệm, nói thế nào cũng phải mạnh hơn Trác Mộc Cường Ba một bậc. Nhưng trong gian phòng tối tăm, xòe tay không thấy ngón này, ngay cả dòng không khí lưu động cũng khó cũng khó mà cảm nhận được. Lần nào Merkin cũng phải đợi Trác Mộc Cường Ba đánh trúng mình trước, sau đó dựa vào tưởng tượng mới phác ra vị trí và động tác của đối thủ trong khoảnh khắc ấy, thành thử ra, y phải chịu thiệt thòi rất lớn.
Cũng bởi vậy, Merkin cảm thấy vô cùng khó hiểu trước năng lực cảm tri mà Trác Mộc Cường Ba học được của lũ sói. Theo nhận định của y, tối thiểu phải đạt đến trình độ pháp sư Á La thì mới có được năng lực ấy, chứ hạng Trác Mộc Cường Ba thì tuyệt đối không.
Tiếp đó, Trác Mộc Cường Ba lại lần lượt tập kích Merkin từ nhiều phương hướng khác nhau: trước, sau, mé phải phía trước, mé trái phía trước, mé phải phía sau, rồi lại mé trái phía sau, dồn cho Merkin phải áp sát lưng vào tường, không dám nhúc nhích gì, bấy giờ gã mới ngừng công kích, ẩn mình trong bóng tối thở hổn hển, nhìn chằm chằm vào con mồi của mình.
Merkin nghe tiếng thở khò khè như của một con ác thú khổng lồ vang lên trong bóng tối ấy, rốt cuộc cũng nảy sinh ý định lui bước. Lời đồn ở thôn Đạt Ngõa Nô Thố quả không sai: “Ngàn vạn lần chớ nên chọc giận Cường Ba thiếu gia, anh ấy mà nổi điên lên thì cả ma quỷ cũng phải run rẩy khiếp sợ.” Hai người bọn họ mới đầu còn công có thủ, mỗi chiêu mỗi thức đều biến hóa tận hết sở năng, về sau dần dần thành ra một cuộc vật lộn theo đúng nghĩa đen, móng tay, nắm đấm, khuỷu tay, đầu gối, trán, răng… những bộ phận có thể dùng được trên cơ thể đều đem ra sử dụng hết. Hai người quấn chặt lấy nhau lăn lộn dưới đất, hoặc không thì kẻ này ôm kẻ kia đập mạnh vào tường. Kiểu đánh nhau này khiến kẻ đã quen sử dụng các loại súng ống kỹ thuật cao như Merkin hoàn toàn rơi vào thế hạ phong. Trác Mộc Cường Ba ở với lũ sói, không có dịp luyện tập bắn súng, nhưng bản lĩnh đánh nhau và vật lộn nguyên thủy của dã thú thì gã đã học được không ít.
Merkin dựa lưng vào bức tường đá băng lạnh, lớn tiếng hỏi: “Anh không sao chứ? Cường Ba thiếu gia?” Y biết chắc mấy đòn khá nặng vừa rồi đều đã đánh trúng Trác Mộc Cường Ba, có điều y phải trả giá đau đớn hơn đối thủ nhiều. “Giờ anh đã rõ chưa hả, tôi không giết nổi anh, nhưng anh cũng không giết nổi tôi đâu!”
Con thú đáng sợ đang ẩn mình trong góc tối vẫn thở phì phò trong cổ họng, Merkin vội vàng nói tiếp: “Được rồi, tôi thừa nhận ở chỗ này anh có thực lực giết tôi, nhưng anh cũng phải thừa nhận, cho dù giết được tôi, anh cũng phải trả một cái giá hết sức nặng nề. Cái giá này hoàn toàn không cần thiết, chẳng lẽ anh không muốn gặp lại Mẫn Mẫn, gặp lại giáo quan Lữ Cánh Nam nữa hay sao? Nói không chừng…phía trên đã xảy ra biến cố gì đấy, nếu vị lạt ma kia muốn xuống cứu anh, mà tôi với anh lại quần thảo nhau đến chết ở đây, há chẳng phải ngu xuẩn lắm sao?”
“Ta không tin ngươi đâu, Merkin!” Giọng Trác Mộc Cường Ba rất khó nghe, tựa hồ như tiếng gầm rú bản năng của một loài dã thú nguyên thủy.
“Phải, tôi biết anh không thể nào lập tức, lập tức thay đổi suy nghĩ được, nhưng anh không có lựa chọn nào khác cả, ở nơi này, tôi và anh, nếu không phải là cả hai cùng sống sót, chỉ có kết cục hai người cùng chết mà thôi.” Merkin lắp bắp tiếp lời, đối mặt với kẻ địch lẩn mình trong bóng tối ấy, lần đầu tiên y có cảm giác không thể khống chế được cục diện. Tiếng gầm gừ đáng sợ vẳng lại ấy chính là lời tuyên cáo của đối phương dành cho y, cảnh cáo rằng chủ nhân của bóng tối này không phải là y.
Tiếng gầm gừ của loài dã thú dần lắng xuống, Trác Mộc Cường Ba đang suy nghĩ.
Merkin biết, lúc này không thể dùng lời để dụ dỗ hay uy hiếp Trác Mộc Cường Ba nữa, vì vậy y chỉ im lặng chờ đợi câu trả lời của gã. Đúng lúc này, trên miệng hố vang lên tiếng ma sát “bịch” một tiếng, nghe như có cái bao tải bị ném xuống, làm mấy vòng, rồi dừng lại bên cạnh Merkin.
Merkin đứng gần miệng hố hơn, nghe thấy âm thanh ấy cũng giật mình đánh thót. Y biết rõ, Trác Mộc Cường Ba không thể nào không nghe thấy tiếng động, nói không chừng, đối phương đã khóa chặt mọi hành động của y rồi, chỉ cần y hơi có động tĩnh gì lạ, móng vuốt và hàm răng của Cường Ba thiếu gia sẽ không chút do dự bập vào y ngay lập tức. Merkin dường như đã nhìn thấy đôi mắt lóe lên sắc vàng u ám của đối thủ trong bóng tối mịt mùng.
Merkin đưa chân chọc chọc vào bao tải, thấy mềm nhũn, lại có tay có chân, hình như là một cái xác, trên lưng còn đeo cả ba lô. Chắc không phải bọn Lữ Cánh Nam, mà là một tên lính đánh thuê nào đấy. Merkin dỏng tai nghe ngóng, xem phía trên miệng hố có âm thanh gì nữa ko, song rốt cuộc chỉ nghe thấy những tiếng ong ong khó chịu.
Nhân lúc Trác Mộc Cường Ba chưa phát động tấn công cướp lấy “món đồ” vừa rơi xuống, Merkin đã lên tiếng trước: “Trác Mộc Cường Ba, thứ vừa rơi xuống hình như là xác của một tên lính đánh thuê, có cả ba lô nữa, nói không chừng lại có thứ gì đó dùng được, tôi đá qua phía anh nhé”.
Nói đoạn, y liền tung chân đá mạnh, cái xác mềm nhũn như bao cát lăn mấy vòng, tay chân va xuống nền đất phát ra những tiếng lộp bộp, đoán chừng đã lăn đến trước mặt Trác Mộc Cường Ba.
Trác Mộc Cường Ba sờ thấy xương yết hầu của thi thể, xác định người chết là đàn ông, nhưng không phải là pháp sư Á La, bấy giờ mới yên tâm phần nào, lên tiếng chất vấn: “Ngươi hảo tâm vậy sao?”
Merkin đáp: “Để bày tỏ thành ý của tôi thôi.”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Ngươi không sợ ta lấy vũ khí trên người hắn, xử lý ngươi càng dễ dàng đơn giản hơn sao?”
Merkin nói: “Nếu anh mà làm vậy thì anh không phải là Trác Mộc Cường Ba nữa rồi, tôi tin vào con mắt nhìn người của mình.” Ngoài miệng nói vậy, nhưng trong lòng y không hề nắm chắc, chỉ nghe tiếng Trác Mộc Cường Ba sờ mó sột sà sột soạt, không biết đã tìm được gì trên xác tên lính đánh thuê xấu số. Merkin bắt đầu cảm thấy đắng nghét ở trong miệng.
“Hừ.” Trác Mộc Cường Ba đột nhiên dừng phắt lại. Merkin lập tức nín thở, chỉ hận không thể khiến tim mình ngừng đập luôn. Cuối cùng, Trác Mộc Cường Ba lên tiếng: “Xem ra, ngươi cũng biết thế nào là căng thẳng, tuyến mồ hôi tăng cường hoạt động rồi đó!”
“Vậy…vậy sao?” Merkin hơi nhích chân lùi vào góc, giơ cánh tay lên, ngửi thử dưới nách, đâu có mùi gì chứ.
Trác Mộc Cường Ba kiểm tra cái xác tên lính đánh thuê, lấy được thứ gã muốn, xong xuôi đâu đấy, mới nói với Merkin: “Cái xác vẫn còn nóng, chắc là bị bắn chết trên miệng giếng tế, rơi thẳng xuống dưới này, trang bị vũ khí của hắn vẫn còn nguyên vẹn.”
Merkin định nói một câu chúc mừng, cười khan mấy tiếng, nhưng vừa mở miệng ra đã thấy khô khốc, không phát ra được âm thanh gì. Lần này, không cần Trác Mộc Cường Ba nhắc nhở, y cũng biết tuyến mồ hôi của mình đã tăng cường hoạt động. Đúng là thập tử nhất sinh, nhiều năm rồi y không đánh cược ván nào kích thích đến thế, cảm giác như đang chơi trò rullet kiểu Nga bằng khẩu súng côn chỉ còn một viên đạn duy nhất vậy.
So với Merkin, Trác Mộc Cường Ba càng lúc càng thêm ung dung, gã trầm mặc một lúc lâu cho tới khi nghe thấy những giọt mồ hôi của Merkin rơi xuống đất, gã mới cất lời: “Muốn chứng minh thành ý, hãy nói cho tôi những điều tôi muốn biết!”
Merkin thầm thở phào nhẹ nhõm, suýt chút nữa không đứng vững, trong cuộc đọ sức trầm lặng này, rốt cuộc y cũng thắng cược, qua được ải này, dẫu Trác Mộc Cường Ba không hoàn toàn tin tưởng, song gã sẽ không coi y như kẻ thù truyền kiếp nữa. Nhưng y vẫn muốn tranh thủ thêm cơ hội, bèn quay sang nhắc nhở Trác Mộc Cường Ba: “Chúng ta có nên tìm thử xem, có lối thoát khỏi đây trước hay không, nói không chừng người bên trên đã có hành động rồi cũng nên.”
Trác Mộc Cường Ba hờ hững đáp: “Tôi cũng không vội gì, trước khi ông nói ra toàn bộ thông tin tôi muốn biết, thì đừng hòng đi đâu cả.” Nói không nôn nóng là giả, nhưng từ sau khi Soares kể lại những gì mà y và Merkin đã từng trải qua ở vùng đất này, Trác Mộc Cường Ba luôn cảm thấy toàn bộ sự việc có gì đó không được đúng lắm. Đặc biệt là sự thất thế của Merkin lần này lại càng chứng thực suy nghĩ ấy của gã. Trước khi làm rõ một số chuyện, rất có thể kẻ địch là ai gã cũng không rõ, cho dù tìm được lối ra thì cũng chỉ là đâm đầu vào chỗ chết mà thôi!“
Đợi một lúc vẫn không thấy Merkin trả lời, Trác Mộc Cường Ba bồi thêm: “Đừng tưởng bịa ra một câu chuyện mà lừa được tôi, tôi biết nhiều hơn những gì ông tưởng nhiều lắm đấy.“
Merkin nghiêm túc trầm giọng nói: “Tôi chỉ đang băn khoăn không biết nên bắt đầu nói từ đâu thôi.“
Trác Mộc Cường Ba nghĩ lại thấy cũng đúng, bí mật của Merkin thực sự quá nhiều, sợ rằng ngay cả y cũng không biết nên bắt đầu kể từ đâu, bèn nói: “Vậy được rồi, tôi hỏi, ông đáp, bắt đầu từ lúc tôi bị đẩy xuống, trên đó đã xảy ra chuyện gì?”
Merkin liền kể về sự xuất hiện bất ngờ của Lữ Cánh Nam, kế đó là Max làm phản, Trác Mộc Cường Ba chăm chú lắng nghe, nhưng hai tay cũng không hề nhàn rỗi, gã bắt đầu lục lọi trong ba lô của tên lính đánh thuê đã chết kia. Vừa mở ba lô ra, gã chạm ngay phải một hình chữ nhật mỏng dẹt, cưng cứng. Merkin đang nói đến đoạn Khafu nhắc y hãy nhớ đến Soares, liền bị Trác Mộc Cường Ba ngắt lời: “Máy vi tính của thầy giáo tôi hình như ở trong ba lô của Nhạc Dương đúng không, sau đó thì lọt vào tay ai vậy?“
Merkin thoáng ngẩn ra, không hiểu Trác Mộc Cường Ba hỏi câu ấy có ý gì bèn trả lời: “Thằng Max vẫn giữ cái máy tính ấy.“
“Tách”, một ngọn đèn bật lên, nhưng chỉ chiếu sáng khoảng hai mét xung quanh Trác Mộc Cường Ba. Chỉ thấy toàn thân gã như vừa mới giác hơi, đầy những đốm tím bầm xanh xám, đầu tóc rối bù, khóe mắt và hai má đều hơi sưng, trên trán còn mọc lên một cục u gồ lên như cái bánh bao nhỏ. Trước mặt gã là một cái xác lính đánh thuê nằm ngang, Trác Mộc Cường Ba coi cái xác đó như mặt bàn, đặt cái máy tính xách tay đang mở lên trên. Vừa nhìn thấy chiếc máy tính đó, Merkin lập tức hướng ánh mắt về phía gương mặt tên lính đánh thuê. Lúc trượt từ trên xuống, hình như tên này cắm đầu xuống đất, nên gương mặt có hơi xây xước, rồi lại bị Merkin đá cho một cú, dấu chân in hằn ngay chính giữa bộ mặt của hắn. Merkin bỗng cao hứng nhảy bật lên: “Max! Max! Không ngờ lại gặp mày sớm đến vậy! Ông chủ mới của mày tiễn mày đi đơn giản vậy thôi à? Thật hời cho mày quá đấy!”
Trác Mộc Cường Ba đã thấy khuôn mặt của Max, song không phản ứng gì, mãi đến khi Merkin cũng xuất hiện trong quầng sáng của ngọn đèn, khóe miệng gã mới không kìm được mà hơi nhếch lên một chút. Merkin biết, lúc này trông mình chắc chắn còn thảm hại nhếch nhác hơn Trác Mộc Cường Ba nhiều lắm, nhưng y đang chú ý đến Max nên chỉ chăm chú nhìn vào bộ mặt tên thuộc hạ cũ, lòng dâng lên trăm mối cảm xúc phức tạp. Trác Mộc Cường Ba lại lo kiểm tra chiếc máy tính của giáo sư Phương Tân, đến khi chắc chắn máy tính không bị hư tổn gì, vẫn có thể khởi động bình thường gã mới tắt máy, rồi tắt luôn cả ngọn đèn đi. Lúc này, chắc Merkin cũng đã nhìn chán chê con chó vừa phản bội y rồi.
“Theo ông thấy chuyện này là thế nào?” Trác Mộc Cường Ba hướng về phía bóng tối bên kia xác chết cất tiếng hỏi. Đây là một khảo nghiệm, Merkin không ra tay khi gã hoàn toàn lộ diện dưới ánh sáng, xem chừng y thật lòng muốn tạm thời hợp tác với gã để cùng thoát khỏi chỗ này.
Merkin ở trong bóng tối đáp: “Thằng Max này tuyệt đối không thể khống chế được Khafu, thêm nữa, kẻ ở sau tấm màn thao túng toàn bộ âm mưu này cũng có mặt ở hiện trường, sau khi tôi nhảy xuống, bọn chúng cho rằng tôi đã chết chắc, thằng Max tự nhiên sẽ trở nên vô dụng với chúng thôi. Thằng ngu đáng thương này, còn vọng tưởng muốn chiếm toàn bộ tài sản của tôi nữa chứ, hừ, hừ…“
Trác Mộc Cường Ba lại ngắt lời y: “Nói tiếp chuyện xảy ra bên trên đó đi.“
Merkin nói hai ba câu tóm tắt lại sự việc xảy ra trước khi y rơi xuống hố, rồi bình luận: “Kẻ ẩn mình trong bóng tối thao túng tất cả, có thể mua chuộc được thằng Max bên cạnh tôi, còn có thể khống chế được Khafu, đây tuyệt đối là một kẻ địch cực kỳ đáng sợ, tôi e rằng dù chúng ta hợp sức đối phó hắn, cũng rất khó khăn đấy.“
Trác Mộc Cường Ba vẫn chưa coi Merkin là người cùng một chiến tuyến với mình, gã tiếp tục thẩm vấn: “Được rồi, tạm thời không nói đến sự việc bên trên nữa, giờ tôi muốn biết chuyện về gia tộc ông, tôi muốn biết, rốt cuộc gia tộc ông và Bạc Ba La thần miếu có quan hệ như thế nào?“
Merkin nói: “Hừ, tra xét được vài đầu mối rồi phải không? Chuyện này kể ra thì mấy ngày mấy đêm cũng không hết…“
Trác Mộc Cường Ba lại ngắt lời: “Nói vắn tắt thôi.“
Merkin nói: “Tôi bắt đầu nói từ năm trăm năm trước vậy, anh có biết, tổ tiên gia tộc của chúng tôi là ai không?” Không phải Merkin cố ý vòng vo tam quốc, đây chỉ là thói quen của y. Mỗi lần ông nội y kể về lịch sử gia tộc, đều dùng câu hỏi này để mở đầu, lâu dần lâu dần, Merkin cũng nhiễm thói quen ấy. Trong suy nghĩ của y, bí mật này cho dù bọn Trác Mộc Cường Ba có điều tra nữa, điều tra mãi, cũng không thể nào có được kết luận chính xác.
Không ngờ, Trác Mộc Cường Ba lại trả lời ngay: “Ông là hậu duệ của hoàng hậu Hắc Miêu!” Lời ấy vừa thoát ra khỏi miệng gã, Merkin lập tức sững người lại.
Trác Mộc Cường Ba mới đoán được bí mật này sau khi nghe Soares kể về lai lịch của Merkin. Soares đã nhắc đến một thông tin rất quan trọng, tổ tiên của Merkin là giáo sĩ truyền giáo Bồ Đào Nha. Vốn dĩ, bọn Trác Mộc Cường Ba đã biết được thông tin này từ trước, nhưng lúc ấy, bọn gã có vắt óc suy nghĩ thế nào cũng không thể liên hệ thông tin này với “gia tộc Bạc Ba La” được.
Cho đến khi Soares nhắc lại lúc họ tình cờ đụng mặt nhau ở rừng sâu, trong óc Trác Mộc Cường Ba như có tia sét lóe lên giữa màn đêm, đánh tan mối nghi hoặc bấy lâu nay vẫn mắc mớ trong lòng gã. Đoạn lịch sử diệt vong của vương triều Cổ Cách đột nhiên xuất hiện trong óc gã, quốc vương cuối cùng của vương triều Cổ Cách và các vị lạt ma thời đó tranh chấp quyền lực rất gay gắt, để cắt giảm và làm suy yếu quyền thế của Đại lạt ma, Cổ Cách Vương quyết định để dân chúng tin theo một tôn giáo mới, nên đã cho phép Thiên chúa giáo du nhập. Giáo sĩ truyền giáo người Bồ Đào Nha đã đến Cổ Cách vào thời điểm ấy. Còn Đại lạt ma và rất nhiều quý tộc cũ đương nhiên cũng không thể nhẫn nhục chấp nhận quyền lực bị đoạt mất, tôn giáo tín ngưỡng bị bóp méo, nên đã cấu kết với quân đội của Lạp Đạt Khắc, âm mưu đuổi Cổ Cách Vương đi, giành lại quyền khống chế triều chính.
Không ngờ, hành động này đã dẫn sói ác vào nhà, Lạp Đạt Khắc không chỉ đuổi Cổ Cách Vương đi, chúng cũng không buông tha cho Đại lạt ma và các quý tộc cựu trào. Bọn chúng muốn nuốt gọn cả vương triều Cổ Cách. Đây chính là nguyên nhân khiến vương triều Cổ Cách bị diệt vong trong lịch sử, còn rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì, tại sao quân đội của Lạp Đai Khắc bị tiêu diệt toàn bộ trong một đêm, chỉ để lại thành trì trống không và vô số thi thể nằm la liệt, tất cả đã trở thành câu đố vĩnh viễn không có lời giải đáp.
Chuyện này chỉ có thể chứng tỏ rằng giáo sĩ truyền giáo người Bồ Đào Nha từng đến Cổ Cách, nhưng Trác Mộc Cường Ba lại nhớ ra một sự kiện khác, chính là câu chuyện về hoàng hậu Hắc Miêu mà pháp sư Á La từng nhắc tới. Cổ Cách Vương thấy vương quốc sắp bị diệt vong, liền mời vị vu sư cao minh nhất đến, biến hoàng hậu mà ngài yêu thương nhất thành mèo đen, dễ dàng có thể thoát ra ngoài qua đường hầm nhỏ bí mật thông vào hậu cung mà người không chui lọt. Đồng thời quốc vương cũng giao chìa khóa và bản đồ dẫn đến kho báu cho hoàng hậu Hắc Miêu, dặn dò nàng phải ẩn nhẫn, để sau này tìm lại kho tàng khôi phục vương triều Cổ Cách. Vậy là hoàng hậu Hắc Miêu liền trở thành ác mộng của bọn trộm mộ trong di tích Cổ Cách, trở thành thần bảo vệ kho báu trong lời đồn đại của dân du mục vùng A Lý.
Thế nhưng, ý nghĩa thực sự ẩn chứa đằng sau câu chuyện thần thoại ấy là gì? Trong một sát na ngắn ngủi, Trác Mộc Cường Ba sực hiểu ra, hoàng hậu Hắc Miêu không chết, nàng ta đã tẩu thoát thành công, mang theo chìa khóa và kho báu. Gã nhớ lại toàn bộ giai đoạn lịch sử diệt vọng của Cổ Cách mà mình tra ra được, trong đó có nói, những người duy nhất thoát chết chính là các giáo sĩ truyền giáo người Bồ Đào Nha tình cờ biết được tin tức ngay trước đêm Cổ Cách bị tiêu diệt. Gã liền xâu chuỗi toàn bộ sự việc lại bằng một suy đoán hết sức mạnh dạn.
HẬU DUỆ CỦA TY THÁNH SỨ
Còn chuyện hoàng hậu Hắc Miêu lúc đó đã có thai hay về sau mới có thai đều không quan trọng nữa. Quan trọng nhất là, nếu giả thiết này đúng thì người đàn ông thần bí có gương mặt của người phương Tây đang đứng ở trước mặt gã lúc này đây, kỳ thực vẫn còn một phần huyết thống của người Tạng! Sau khi nghĩ thông được điểm này, Trác Mộc Cường Ba cho rằng mình đã hiểu thông được vấn đề mà pháp sư Á La trước giờ vẫn luôn lấy làm nghi hoặc: “Tại sao Merkin cũng trở thành thánh sứ được, hắn ta rõ ràng là người ngoại quốc cơ mà?”
Sau câu nói vạch rõ chân tướng ấy của Trác Mộc Cường Ba, hai người đều đắm chìm trong yên lặng một hồi lâu, không khí xung quanh trở nên nặng nề bức bối lạ thường. Merkin không thể nào ngờ, bí mật gia tộc mình đã gìn giữ nghiêm ngặt suốt mấy thế kỷ, lại bị một người ngoài nói trắng ra bằng thứ ngữ khí khẳng định như thế, nhất thời y không chấp nhận nổi. Nghĩ thật tức cười, y vốn định khiến Trác Mộc Cường Ba phải kinh ngạc một phen, nào ngờ giờ lại thành ra chính bản thân y phải ngạc nhiên sững sờ như phỗng đá.
Không biết bao lâu sau, Merkin mới lấy lại vẻ bình tĩnh sau pha chấn động, tuy điều Trác Mộc Cường Ba nói đã rất gần với chân tướng sự thực, nhưng dẫu sao cũng chưa phải là toàn bộ sự thực, bí mật của gia tộc nhà y chắc chắn sẽ khiến đối phương phải cả kinh thất sắc một phen. Y cười khổ nói: “Các người làm sao điều tra ra được vậy?“
Trác Mộc Cường Ba thành thực trả lời: “Thực ra chúng tôi vốn chẳng điều tra được gì, đây là do tôi đột nhiên nghĩ ra, cũng mới gần đây thôi.”
Kế đó, gã nói một lượt về liên tưởng và các giả thiết của mình. Merkin nghe mà không khỏi lắc đầu cười khổ. Chỉ dựa vào một câu chuyện thần thoại mà đoán được chân tướng sự thực, năng lực phân tích này thật là đáng sợ. Sự thật này ngay cả nhà phân tích xuất sắc nhất trong đội ngũ của đối phương là Nhạc Dương cũng chẳng thể nào nghĩ đến được, Merkin dám khẳng định như vậy! Đây mới là Trác Mộc Cường Ba, gã Trác Mộc Cường Ba tinh minh trên thương trường, mấy năm huấn luyện thể năng đã khiến đầu óc gã bị áp chế ư? Không, trước kia xua đuổi Trác Mộc Cường Ba trên băng nguyên, gã Trác Mộc Cường Ba vẫn ngây ngây ngốc ngốc, chính y còn giễu cợt gã là thằng ngu xuẩn cơ mà? Nói như vậy là có nghĩa trong khoảng thời gian này, Trác Mộc Cường Ba đã bất ngờ có những biến đổi về thể chất. Gã đã phải trải qua những chuyện gì? Từ thể năng, kỹ năng đến trí năng, rốt cuộc Trác Mộc Cường Ba đã lột xác như thế nào?
Nghe Trác Mộc Cường Ba phân tích mãi, cuối cùng Merkin cũng cảm thấy không chịu nổi nữa, y ngắt lời gã: “Anh…anh rất lợi hại, lúc trước tôi đã sai lầm khi đánh giá anh. Phải rồi, phân tích và suy đoán của anh rất hợp lý, nhưng vẫn còn cách chân tướng sự thật một khoảng nhỏ.“
“Ừm.” Trác Mộc Cường Ba chăm chú chờ đối phương nói tiếp. Gã cũng biết, chỉ với thân phận là hậu duệ của hoàng hậu Hắc Miêu, bọn họ vẫn chưa đủ kiêu ngạo để tuyên bố rằng Bạc Ba La thần miếu là sản nghiệp của gia tộc mình. Gia tộc Merkin rốt cuộc còn bằng chứng gì khác nữa?
Chỉ nghe Merkin trầm giọng nói: “Anh có biết tổ tiên của hoàng hậu Hắc Miêu là ai không?” Trong bóng tối, một giọng nói run run cất lên như muốn xé toang tấm màn bóng tối dày đặc. “Tổ tiên hoàng hậu Hắc Miêu là Tây Thánh sứ Bì Ương Bất Nhượng, đây chính là bí mật lớn nhất mà gia tộc chúng tôi chưa từng công khai, tổ tiên chúng tôi chính là Bì Ương Bất Nhượng.
“Tây Thánh sứ Bì Ương Bất Nhượng!” Mặc dù đã chuẩn bị tâm lý từ trước, Trác Mộc Cường Ba suýt chút nữa đã nhảy dựng lên, nhân vật ngay cả trong Cố Cách kim thư cũng không nhắc đến tên ấy, không ngờ lại có một vị hậu duệ trực hệ đang ngồi ngay trước mặt gã! Điều này, hiển nhiên là bí mật được Merkin chôn dấu sâu nhất. Lúc Trác Mộc Cường Ba nói chuyện với Soares, Soares rõ ràng không biết thân phận này của y.
Thuở bấy giờ, tín vật mà gã sứ giả kia mang ra là thứ gì? Rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì trước khi Cổ Cách bị diệt vong? Họ có biết gì về tung tích của ba món tín vật hay không? Họ biết được những gì về đoạn lịch sử liên quan đến Bạc Ba La thần miếu đã bị xóa nhòa kia? Nhất thời, quá nhiều câu hỏi cùng lúc hiện lên trong đầu Trác Mộc Cường Ba, khiến gã không biết nên bắt đầu hỏi từ đâu nữa.
Merkin lại cất giọng điềm đạm nói tiếp, ngữ điệu không quá kiêu căng, song cũng không hạ mình: “Nếu muốn nói về lịch sử gia tộc chúng tôi và quá trình gia tộc nghiên cứu Bạc Ba La thần miếu, e rằng nói mấy ngày mấy đêm cũng không hết được. Điều tôi muốn nói với anh là, bản đồ kho báu năm xưa Cổ Cách Vương bảo hoàng hậu Hắc Miêu mang đi ấy, kỳ thực chính là nửa sau của Cổ Cách kim thư, ghi chép một số sự việc mà các anh không biết, bao gồm cả hoàn cảnh địa lý của ba tầng bình đài, cái hồ anh trông thấy khi nãy và trận đồ bằng đá ở vòng ngoài cái hồ đó. Nếu ghép nữa đầu của các anh và nửa sau của chúng tôi lại, thì sẽ hoàn nguyên lại được một pho lịch sử Cổ Cách hoàn chỉnh.“
“Đợi chút đã!” Trác Mộc Cường Ba sắp xếp lại mạch tư duy rối loạn trong đầu, gạn lọc lại các đầu mối, đoạn nói: “Ông cần phải kể từ lúc vị sứ giả kia tìm thấy tổ tiên Tây Thánh sứ của gia tộc nhà ông, kể cho tỉ mỉ rõ ràng vào, lúc đó vị sứ giả đã giao vật gì cho tổ tiên của ông? Muốn tổ tiên ông bảo tồn bí mật gì? Còn cả sự biến mất của Đạo quân Ánh sáng trong lịch sử nữa, tổ tiên ông có biết về sự kiện này không?“
“Đạo quân ánh sáng?” Merkin thoáng ngẩn ra, nói: “Tôi không hiểu anh đang nói gì, nhưng tôi có thể khẳng định với anh rằng, trên thực tế khi tổ tiên tôi được sứ giả tìm thấy, ngài ấy hoàn toàn không biết thân phận Tây Thánh sứ của mình. Rõ ràng, vị tổ tiên ấy của tôi, vị tên là Bì Ương Bất Nhượng Ấy, có ý che giấu quá khứ, hy vọng sống cuộc đời của người bình thường. Có điều, về tín vật mà sứ giả mang tới, tôi có thể cung cấp cho anh một số nội dung thiết thực. Theo như ghi chép trong hồi ký của tổ tiên, vị sứ giả ấy trước sau đã đến gặp ngài hai lần, phần ghi chép trong Cổ Cách kim thư có lẽ là nội dung của lần thứ hai. Lần đầu tiên, sứ giả mang đến chìa khóa, tặng cho tổ tiên của tôi, tương truyền, đó là chìa khóa có thể khai mở bí mật của Bạc Ba La; lần thứ hai, thứ sứ giả mang đến chính là Đại Thiên Luân kinh. Thực ra một phần ghi chép trong Cổ Cách kim thư có liên quan rất lớn đến Đại Thiên Luân kinh. Đại Thiên Luân kinh có thể nói là một bộ tổng cương, cũng có thể nói là một bộ chỉ nam lữ hành. Theo những gì ghi lại trong bút ký của tổ tiên tôi, trong đó có lẽ còn kể tỉ mỉ những vật phẩm trân tàng bên trong Bạc Ba La thần miếu, phân loại rõ ràng, ngoài ra còn có cả ảo nghĩa đúc rút ra từ các kinh điển nữa. Nói một cách đơn giản, pho kinh này chính là thư mục của một cuốn sách, còn bên trong Bạc Ba La thần miếu chính là nội dung của cuốn sách ấy. Vả lại, mấy trang cuối cùng của pho kinh thư này, có lẽ chính là bản đồ và chỉ dẫn cho bản đồ ấy dưới dạng các câu đố ẩn.“
“Bản đồ da sói!” Trác Mộc Cường Ba lập tức nhớ đến phát hiện của bọn gã ở địa cung Cổ Cách và Đảo Huyền Không tự.
“Đúng thế, chính là tấm bản đồ mà các anh và chúng tôi tranh đoạt ở Đảo Huyền Không Tự.” Merkin ngưng lại giây lát, rồi tiếp lời: “Trong lần gặp thứ hai này, vị sứ giả ấy mới chỉ rõ ra rằng, tổng cộng có ba vị Thánh sứ. Sứ giả đã giao tín vật thứ nhất ra rồi, nhưng gia tộc chúng tôi vẫn chưa điều tra ra được tín vật ấy ở đâu. Hai món còn lại, chính là Đại Thiên Luân kinh và Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu, món sau cũng chính là tấm gương đồng mà các anh lấy được, hình như gọi là Hương Ba La mật quang bảo giám đúng không? Nhưng sau khi trao tính vật thứ nhất, sứ giả dường như có chút do dự, thái độ không còn nhất quán nữa. Theo ghi chép của tổ tiên chúng tôi, khi đó bọn họ đã thảo luận liền mấy ngày về chủ đề ý nghĩa của sinh mệnh và luân hồi chuyển nghiệp. Phải biết rằng, tuy lúc đó tổ tiên chúng tôi không biết thân phận Thánh sứ của mình, song ngài cũng là bậc đại trí giả trong dân gian được giáo hội Lạt ma của Cổ Cách công nhận đấy. Chính vì có lần đàm luận ấy, thái độ của sứ giả cuối cùng cũng đã thay đổi, về sau mới có chuyện Cổ Cách Vương mời sứ giả đến.” Hiển nhiên, Merkin nắm được khá nhiều nội dung của nửa trước Cổ Cách kim thư. Nhưng Trác Mộc Cường Ba hoàn toàn không biết gì về nửa sau của bộ sách này, gã bèn hỏi những chuyện xảy ra sau này với vị sứ giả, thậm chí, cả sự diệt vong của vương triều Cổ Cách, gã cũng cảm thấy có liên quan đến chuyện này.
Merkin lúc thì trầm tư, lúc thì ngừng hẳn lại, không biết là đang cố gắng giảng giải kỹ lưỡng nội dung của nửa sau Cổ Cách kim thư cho Trác Mộc Cường Ba nghe, hay là cố gạn lọc lựa chọn một số phần mà y cho rằng Trác Mộc Cường Ba có thể biết. Thông qua lời kể của Merkin, Trác Mộc Cường Ba biết thêm rất nhiều bí ẩn lịch sử, rất hiển nhiên, sau khi đàm luận với tổ tiên của Merkin, thái độ của vị sứ giả kia đã chuyển biến, song nội dung của cuộc đàm luận kia thì không thể nào biết được. Sứ giã đã dừng hành động giao tín vật cho ba vị Thánh sứ, ngược lại còn yêu cầu Cổ Cách Vương hiệp trợ mình phân tách tín vật ra. Từ các hành vi này có thể thấy, dường như ông ta muốn các tín vật này vĩnh viễn không còn cơ hội thấy lại ánh sáng mặt trời, song không hiểu sao lại vẫn để lại một chút đầu mối để hậu nhân sau này phát hiện ra một chút dấu vết mờ nhạt trong lịch sử.
Theo lý giải của gia tộc Merkin, sứ giả làm như vậy, chính là hy vọng sau này không ai có thể phát hiện ra Bạc Ba La thần miếu, nhưng những tín vật kia lại là vật chí cao vô thượng, không thể đem hủy diệt. Sở dĩ phải mang tín vật đi giấu ở tận nơi chân trời góc biển, chính là vì tâm tư thuận theo ý trời. Sứ giả đã làm đến nước này rồi mà vẫn bị người đời sau phát hiện, vậy thì đó chính là mệnh trời xui khiến, không liên quan đến ông ta nữa. Còn sứ giả, sau khi từ địa lục xa xôi kia trở về, liền như biến thành một con người hoàn toàn khác, ngày nào cũng say khướt, hành vi điên rồ nổi loạn. Nguyên nhân gây ra tình trạng này không được rõ cho lắm, có điều, Merkin lại nhắc đến câu nói mà vị sứ giả kia thường xuyên lẩm bẩm sau khi trở về: “Tất cả mọi người đều chết rồi, mọi thành đô đều đã chết rồi.”
Còn sự diệt vong của vương triều Cổ Cách, hiển nhiên không thể nào được ghi lại trong Cổ Cách kim thư, Merkin nhớ, dường như mấy chục ngày cuối cùng đó đều không được ghi chép gì trong Cổ Cách kim thư cả. Có điều vị Cổ Cách Vương cuối cùng từng được nhắc đến đã muốn mở chiếc hộp có thể hủy diệt tất cả kia ra, cùng diệt vong với quân xâm lược.
Khi Trác Mộc Cường Ba và Merkin thảo luận trong bóng tối, bọn lính đánh thuê ở trên cũng không có hành động gì, kẻ thần bí khống chế toàn cục kia chỉ ra lệnh cho cả bọn nghỉ ngơi tại chỗ, sau đó bật chiếc máy tính cầm tay lên, trên màn hình xuất hiện hai chấm nhỏ màu đỏ, nhưng không thấy chuyển động gì. Y lặng lẽ chờ đợi, đến đêm khuya khi trăng đã lên cao, mới nói khẽ một câu: “Cũng nói lắm thật đấy.”
Bọn lính đánh thuê thì thầm hỏi nhau: “Chúng ta đang đợi gì vậy?”
Khafu chuyển câu hỏi này cho gã thanh niên tên Thomas, câu trả lời bọn chúng nhận được là: “Cánh cửa kia phải đợi đến thời điểm nhất định mới mở ra được.”
Khafu cũng thì thầm hỏi Thomas: “Tại sao còn giữ bọn chúng lại?” Y liếc nhìn về phía pháp sư Á La và Lữ Cánh Nam.
Người trẻ tuổi ấy điềm đạm nói: “Merkin đã mất hết tất cả, trở thành nhân tố không thể khống chế, song uy thế của tao vẫn có thể trấn nhiếp được hắn. Nhưng Trác Mộc Cường Ba thì khác, nếu hắn cũng trở thành nhân tố không thể khống chế, có trời mới biết hắn sẽ gây ra chuyện gì, kiềm chế được ba người này, chính là kiềm chế được Trác Mộc Cường Ba.” Khafu gật đầu như hiểu mà cũng như chẳng hiểu gì.
Ánh trăng rải xuống mặt hồ lăn tăn gợn sóng, một tia sáng chiếu qua những khối đá nằm rải rác như quân cờ trên quảng trường, rọi qua khe núi dài hẹp, chầm chậm nhích lên bụng con nhện khổng lồ.
Thấy bóng sáng nhích động, người trẻ tuổi kia đứng lên, nói với cả bọn: “Cũng gần đến lúc rồi đấy.” Y bước thẳng đến chỗ cái bồn nước trông như chậu rửa tay, nghiến răng nói: “Tốn nhiều máu thật!” Nói đoạn y liền vén ống tay áo trái lên, để lộ cánh tay cơ bắp cuồn cuộn, từ từ cắt vào một dao, những giọt máu lỏng tỏng nối thành dòng, chảy thẳng xuống chậu nước rửa tay bên dưới.
Pháp sư Á La ngẩng đầu lên nhìn mấy hàng chữ cạnh cửa, nghi hoặc nói: “Sao có thể được?”
Lữ Cánh Nam lại chú ý đến lượng máu của tên lính đánh thuê, 250 ml, 500 ml, 600 ml…máu trong bồn dần dần dâng lên, khi dâng đến một mức nhất định, bỗng nghe “bâng” một tiếng, tựa như có lớp vỏ nào đó bị đập vỡ. Tên lính đánh thuê trẻ tuổi ấy cười cười nói: “Xong rồi!”. Y co tay lại, giật một mảnh băng cầm máu rồi nhanh nhẹn thắt nút, chỉ trong thoáng chốc đã cầm máu xong xuôi. Máu trong bồn rửa tay bắt đầu thấm xuống dưới, cuối cùng thì hoàn toàn biến mất.
Những lông mao trên chân con nhện khổng lồ đã bắt đầu hút máu như bọt biển, chuyển sang sắc đỏ thẫm dưới ánh trăng màu ngân bạch, tựa hồ muốn sống dậy. Bọn lính đánh thuê vội nhao nhao lùi lại, không dám đứng trước cửa lớn. Toàn bộ những sợi lông phía dưới đều bị máu nhuộm đỏ thắm, sắc máu tiếp tục lan dần lên phía trên, phảng phất như muốn đuổi theo tia sáng lấp lóa màu vàng nhạt. Cuối cùng, sắc máu và tia sáng gặp nhau ở chỗ gần mắt. Tám con mắt nhện xếp thành hình cung như vành trăng khuyết chiết xạ ánh trăng màu vàng nhạt, vạt máu đỏ thẫm đã thấm vào trong, tựa như hai tia chớp một vàng một đỏ truy đuổi nhau trong nhãn cầu con nhện, từ con mắt này chạy sang con mắt khác.
Một lúc lâu sau, mặt đất mới bắt đầu rung, cát bụi bốc mù mịt, âm thanh như thể xe lửa nghiến lên đường ray từ xa vẳng lại, mỗi lúc một gần hơn. Nếu lúc này có người ở bên cạnh Bức Tường Than Thở, ắt sẽ ngạc nhiên phát hiện thấy bức tường mỗi ngày đều phun hơi mù trắng theo giờ ấy, lúc này như thể một công xưởng đang tăng ca hết cỡ, hơi sương mù mịt trắng xóa bốc lên cuồn cuộn, che kín toàn bộ bức tường thấp thoáng tiếng máy móc gầm rít. Pháp sư Á La nhìn người thanh niên, chừng như không dám tin vào mắt mình nữa. Ông nhắc lại câu hỏi lần nữa: “Rốt cuộc ngươi là ai?”
Người trẻ tuổi chỉ chăm chú nhìn hàng chữ lớn trên cửa, không rõ y đang dịch những văn tự ấy hay là trả lời câu hỏi của pháp sư Á La: “Một người huyết thống thuần chủng! Một người trí tuệ tuyệt luân! Một người không biết sợ hãi, thân thủ phi phàm! Ha ha ha…”
Cùng với tràng cười ngạo nghễ như thể “phóng mắt nhìn khắp thiên hạ, ngoài ta ra chẳng còn ai nữa” đó, cánh cửa đá khổng lồ sừng sững từng khiến pháp sư Á La và Mẫn Mẫn phải thúc thủ đã dần dần dịch sang hai bên, nhưng không mở hoàn toàn, mà chỉ nhích ra tạo thành một đường hầm cho phép một người đi lọt. Từ đây có thể thấy, cánh cửa này quả nhiên còn có tác dụng chịu tải nữa. Nhìn từ chính diện, đường hầm tưởng chừng như kéo dài vô tận vào lòng núi. Thomas sai bọn lính đánh thuê đẩy ba người pháp sư Á La vô trước. “Xin mời!” Y đưa tay làm thành động tác mời hết sức thanh nhã.
Pháp sư Á La đi đầu tiên, phía sau có tên lính đánh thuê mang thiết bị chiếu sáng rọi sáng rực cả đường hầm. Cửa đá này quả nhiên là từng cánh cửa xếp thành hàng, mỗi cánh cửa dày khoảng một mét, nhìn về phía trước, không biết rốt cuộc là có bao nhiêu cánh cửa như vậy nữa. Vả lại, khi đi vào đường hầm, họ mới phát hiện hai mép cửa ở hai bên không phải là một đường thẳng, mà hơi nghiêng nghiêng, cánh cửa bên trái nghiêng xuống dưới, cánh cửa bên phải nghiêng chếch lên trên. Đồng thời, trên mỗi mặt cắt lại có các hình điêu khắc một lồi một lõm. Khi chúng đóng lại mặt lồi vừa khéo ghép mộng khít vào bên trong mặt lõm. Những bức phù điêu hết sức kỳ quái, không phải tượng Phật, mà là những vật thể tròn tròn như quả trứng, tỉ mỉ rọi đèn vào quan sát mới phát hiện đó là các hình người đang cuộn mình, tư thế giống hệt tư thế Mật tu mà Lữ Cánh Nam từng dạy cho Trác Mộc Cường Ba, cũng chính là tư thế của bào thai trong bụng mẹ.
Có bức chính diện, có bức lại khắc mặt nghiêng, có bức hướng lên trên, có bức hướng xuống dưới, nói chung là đủ loại phương vị. Những tượng người cuộn tròn thân thể ấy, toàn bộ đều là người trưởng thành, ngũ quan rõ ràng, tướng mạo khác nhau, thoạt nhìn vừa giống người phương Đông lại vừa giống người phương Tây. Vì toàn bộ đều không có tóc, mà tư thế ấy lại che đi tất cả các bộ phận có thể phân biệt giới tính, nên nhìn thoáng qua vừa giống đàn ông, lại cũng giống đàn bà, các gương mặt khác hẳn nhau, song lại khiến người ta có cảm giác hết sức quen thuộc. Vị trí của những bức phù điêu vừa khéo cao hơn tầm nhìn một chút, nên cho dù không muốn nhìn chúng, chúng cũng cứ lọt vào tầm mắt, mà đã trông thấy thì không thể không kinh hãi và thán phục trước kỹ thuật điêu khắc của người xưa, đồng thời cũng không sao kìm nén được một câu hỏi dâng lên tự trong lòng: “Hình người nhắm mắt này, hình như mình đã thấy ở đâu rồi nhỉ.”
Còn nếu nghiêng đầu sang bên phải, tựa như trông thấy có một bóng đen ẩn bên trong mặt lõm, cái bóng ấy hình như đã gặp ở đâu rồi.
Xung quanh các bức điêu khắc là các ký hiệu tiếng Tạng cổ, ghép lại thành một đường riềm hoa văn, tựa như dây leo quấn chằng chịt vào nhau. Lúc nhìn thấy những ký hiệu ấy, pháp sư Á La thoáng ngẩn người, ý nghĩa của dòng chữ là: “Tìm thấy bản thân ngươi!” Những ký hiệu này không ngờ lại là một câu kệ cực kỳ thâm ảo như trong kinh Phật, bấy giờ khi nhìn lại những hình khắc lồi lõm trên mép cửa, ông lập tức lại có giác ngộ mới.
“Các vị tiên hiền thời xưa, rốt cuộc muốn nói gì với chúng ta vậy?” pháp sư Á La chăm chú nhìn những người trưởng thành trong tư thế thai nhi hiện lên trước mắt mình, đột nhiên lờ mờ cảm ngộ được gì đó, phảng phất như có vị trí giả nào đang quát lên: “Cởi bỏ y phục ra!”
Nội tâm Lữ Cánh Nam đã dần bình lặng lại. Nhìn những hàng điêu khắc chỉnh tề hai bên vách, cô cảm giác như mình đang xuyên qua đường hầm thời không, bất luận là bi hay hỉ, rốt cuộc rồi cũng trở về với hư vô mà thôi. Cô có hận Mẫn Mẫn không? Hay là nên hận chính bản thân mình? Những điều ấy không quan trọng nữa, nhìn những người này, cô chợt nhận ra, tất cả mọi người đều đến như thế, có lẽ cũng sẽ đều ra đi theo cùng một cách như thế. Cuộc đời con người, trải qua thế nào thì không hối hận? Đó là khi chình mình cho rằng mình đã làm hết mọi điều nên làm, không tiếc nuối, hỉ nộ ai lạc, tự nhiên nhi nhiên.
Còn đám lính đánh thuê thì cảm thấy giống như đi vào một hành lang chật hẹp của phòng thí nghiệm, những bức điêu khắc giống hệt như thật, hết sức sinh động, như thể hai bên xếp kín những bình thủy tinh chứa đầy dịch thể bảo quản, ngâm toàn xác người. Tuy những hình người đều nhắm nghiền mắt, song lại giống như có thể mở trừng mắt với chúng bất cứ lúc nào vậy. Tại sao lại phải sợ những bức tượng ấy mở mắt ra chứ? À, nhớ ra rồi, những kẻ này hình như đều chết dưới tay ta! Đúng! Chính là thằng đó, còn cả tên kia nữa! Đúng là ánh mắt tuyệt vọng trước lúc chết của chúng! Tại sao lại xuất hiện ở nơi này?
“Tập trung tinh thần!” Nhìn vào gáy người đi trước! Đừng để những bức điêu khắc ấy mê hoặc!” Dường như nhận được chỉ thị nào đó, Khafu đột nhiên hét lớn, lòng đường hầm tức khắc tràn ngập tiếng vọng, quả nhiên đã có hiệu quả tức thời.
Chỉ mình người trẻ tuổi kia vẫn hờ hững nhìn các bức điêu khắc hai bên vách: “Hừ, tìm thấy bản thân ngươi! Đó chỉ là việc của lũ phàm tục, liên can gì đến ta? Các ngươi định dùng muôn vạn bộ mặt này mê hoặc người ta sao? Có bao nhiêu người thực sự nhận thức được như mình chứ? Cánh cửa chúng sinh, chẳng qua cũng chỉ có vậy mà thôi.“
Lữ Cánh nam thì thầm hỏi pháp sư Á La đi phía trước cô: “Cánh cửa này đúng là dùng máu có thể mở ra được sao?” Lực co giãn của huyết trì như thế nào bọn họ chưa từng được chứng kiến, có điều nhìn không dưới một trăm cánh cửa ken két sát thành hàng trước mắt đây, chỉ sợ rút hết máu của tên trẻ tuổi ấy cũng không đủ tạo ra lực lớn đến vậy. Nguồn truyện:
Pháp sư Á La chầm chậm nói: “Không, máu của y chỉ để mở ra một cửa chặn nhỏ, giống như kéo cầu dao diện của nhà máy vậy, những cánh cửa này được mở ta bằng một nguồn lực khác mạnh hơn nhiều.” Bọn họ chưa trông thấy Merkin dùng một con mắt bạc nhỏ bé khởi động toàn bộ cơ quan trong Đảo Huyền Không tự như thế nào, vì vậy không thể biết được sự thần bí mà phức tạp của những cơ quan này.
BẠC BA LA THẦN MIẾU
Những chấn động bên trên cũng lan xuống dưới giếng tế, Trác Mộc Cường Ba và Merkin đều cảm thấy luồng sức mạnh cuồn cuộn như thể có một con quái vật khổng lồ cựa mình thức dậy. Đặc biệt là Merkin lại càng có cảm giác quen thuộc lạ thường, y lập tức phản ứng, nôn nóng kêu lên: “Bọn chúng mở được cửa rồi, khốn kiếp thật! Sao lại có cảm giác này chứ? Chẳng lẽ tất cả cơ quan trong Bạc Ba La thần miếu đều được khởi động rồi sao?“
“Thế là thế nào?” Trác Mộc Cường Ba bật đèn lên, lập tức trông thấy bộ dạng cuống cuồng bất an của Merkin. Dáng vẻ ấy của đối phương khiến gã không khỏi hiếu kỳ, từ đầu chí cuối, Merkin chưa hề lộ ra vẻ mặt này, ngay cả khi mình đối mặt với gã trong bóng tối, để bày tỏ thành ý, y đã đá cái xác của Max về phía gã, lúc đó y chỉ hơi căng thẳng một chút, nhưng bên dưới vẻ ngoài căng thẳng ấy, y vẫn giữ được sự kiên nghị và ngoan cường. Đã bao giờ thấy y lo được lo mất thế này đâu?
Merkin lo âu cũng là hợp lẽ, những biến cố bất ngờ xuất hiện mỗi lúc một nhiều, toàn bộ sự việc này đã không còn nằm trong sự khống chế của y nữa, ngược lại, y còn có cảm giác mình đang bị người khác khống chế. Nghe Trác Mộc Cường Ba hỏi, Merkin mới giật mình đáp: “Tôi không biết, nhưng tôi có cảm giác rất tệ, chúng ta phải nhanh chóng nghĩ cách rời khỏi nơi này trước khi bọn chúng vơ vét sạch mọi thứ trong Bạc Ba La thần miếu.“
Trác Mộc Cường Ba đứng lên nói: “Cũng đến lúc rời khỏi đây rồi.” Merkin đã nói ra rất nhiều bí mật, tuy vẫn chưa thể xác nhận xem những điều y tiết lộ có phải là sự thật trăm phần trăm hay không, song đã giải đáp được rất nhiều mối nghi hoặc mắc mứu tích tụ trong lòng Trác Mộc Cường Ba bấy lâu nay. Theo lời kể của Merkin, cả bộ Cổ Cách kim thư và Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu – cũng chính là Hương Ba La mật quang bảo giám, có lẽ là hai món vật bổ trợ cho nhau, một thứ chép lại bằng văn tự, một thứ biểu đạt bằng hình tượng, nhưng đáng tiếc thông tin hai thứ này cung cấp chỉ bắt đầu từ lối vào Tu Di giới, và đến cửa lớn của Bạc Ba La thần miếu thì đứt đoạn, không hề có chút nội dung nào liên quan đến thần miếu cả. Trác Mộc Cường Ba thậm chí còn nghĩ, Cổ Cách kim thư và Hương Ba La mật quang bảo giám chỉ ra tuyến đường từ tầng bình đài thứ ba đến Bạc Ba La thần miếu, còn trong hai tấm bản đồ da sói và cả bộ Đại Thiên Luân Kinh, có lẽ ẩn chứa thông tin để từ bên ngoài tìm được lối vào Tu Di giới. Mà khi ấy, sứ giả đã mang ra ba món tính vật này, từ đây suy ra, chắc còn một vật gì đó khác nữa, nói không chừng chính thứ này chỉ dẫn về các cơ quan bên trong thần miếu và nơi cất giấu báu vật kỳ trân cũng nên.
Đương nhiên, vẫn còn vô khối bí mật mà Merkin chôn giấu rất sâu, chẳng hạn như chuyện về Mười ba kỵ sĩ bàn tròn, Trác Mộc Cường Ba không hề hỏi, mà Merkin cũng không nhắc đến một lời.
Cánh cửa khổng lồ mở ra không thể không có chút động tĩnh gì, Trác Mộc Cường Ba nãy giờ vẫn chờ đợi thời điểm này. Đối phương mong muốn mở được cửa đá, có lẽ cần thời gian để phá giải cơ quan, mà muốn đối phương tin rằng bọn gã rơi xuống giếng tế rồi không thể sống sót, thì cũng cần phải im lặng không gây ra tiếng động gì lớn trong một khoảng thời gian nhất định. Chỉ là, Trác Mộc Cường Ba vẫn chưa hiểu được vì sao Lữ Cánh Nam, pháp sư Á La và Mẫn Mẫn lại không bị đẩy xuống giếng tế này như gã? Lẽ nào vẫn còn biến cố khác? Trác Mộc Cường Ba chỉ thoáng suy tư trong giây lát, rồi phủ định luôn tình huống khó có khả năng xảy ra nhất ấy khỏi đầu.
“Đi thế nào đây?” Giọng Merkin đầy vẻ chờ mong, rõ ràng trận đánh xáp lá cà đọ thể lực vừa rồi, cùng việc phải tính toán gạn lọc xem nên kể những việc gì khiến Trác Mộc Cường Ba hứng thú đã xâm chiếm gần trọn đầu óc y. Thực ra y vẫn đang lấy làm lạ, không hiểu tại sao Trác Mộc Cường Ba lại không hỏi chuyện về Mười ba kỵ sĩ bàn tròn. Y vốn đã chuẩn bị cả một câu chuyện dài, đảm bảo có thể khiến Trác Mộc Cường Ba giật mình kinh hãi, nhưng rốt cuộc lại coi như chẳng hề nói gì với gã cả.
Sở dĩ Trác Mộc Cường Ba không hỏi là bởi Soares từng bảo gã thế này: “Tôi biết các anh đã điều tra tôi và Merkin, tra ra được Mười ba kỵ sĩ bàn tròn, về mặt này, tôi không thể nói với anh quá nhiều, các anh chỉ cần biết đây là một tổ chức ẩn mình rất kỹ là đủ rồi. Biết quá nhiều, đối với các anh không có lợi gì cả, mà các anh cũng không cần phải lo Mười ba kỵ sĩ bàn tròn sẽ gây phiền phức cho mình đâu, vì trên thực tế, hành động điều tra Bạc Ba La thần miếu này chẳng liên quan gì tới họ cả, đây hoàn toàn là chủ ý của một mình Merkin. Để tìm tòa miếu trong truyền thuyết này, tôi biết y đã nỗ lực rất nhiều năm, thậm chí gia tộc y đã phát điên lên vì nó từ mấy trăm năm nay rồi, cả quá trình đó, chúng tôi tuyệt đối không thể để người cũa Mười ba kỵ sĩ bàn tròn biết được…“
Trong tình huống đó, Soares không thể nào, cũng không có lý do gì để nói dối, Trác Mộc Cường Ba cũng không muốn biết quá nhiều bí mật của thế giới hắc ám ấy, giải quyết vấn đề trước mắt mới là quan trọng nhất.
Trác Mộc Cường Ba gạt mọi vấn đề làm nhiễu loạn tư duy ra khỏi đầu óc, hỏi ngược lại Merkin: “Chúng ta ở dưới này lâu như vậy, ông có cảm thấy bức bối tức thở không?“
“Có đường thông gió?” Thể lực tiêu hao nghiêm trọng cùng cảm giác căng thẳng không hề khiến chỉ số thông minh của Merkin sụt giảm.
Trác Mộc Cường Ba lấy ra một ngọn đèn pha khác, chỉnh cường độ sáng lên mức mạnh nhất, quét một vòng xung quanh rồi nói: “Không gian dưới này rất lớn, tuyệt đối không thể chỉ dùng để chôn vùi tế phẩm thôi đâu, ừm, ở kia…” Merkin nhìn theo hướng cột sáng đèn pha, chỉ thấy chính giữa khoảng không gian dưới lòng đất này có một đồng xương trắng to tướng nằm đó, riêng bộ khung xương đã to hơn con thằn lằn khổng lồ bọn họ từng đụng độ nhiều. Các dẻ sườn của bộ xương chỉa thẳng lên trần nhà, tựa như cột trụ hành lang của cung điện vậy.
“Quái vật gì đây?” Merkin lấy làm ngạc nhiên, cứ ngỡ bên cạnh còn có Soares.
Trác Mộc Cường Ba giơ đèn chiếu lên phần đầu của bộ xương, quan sát xương quai hàm khổng lồ và bộ răng nhọn cắm đầy miệng, nói: “Một loài động vật ăn thịt khổng lồ thể hình có thể lớn hơn cả loài Giganotosaurus phương Nam, có điều đây là việc của các nhà khảo cổ, chúng ta chỉ cần tìm được đường thông gió là tốt rồi.”
Trác Mộc Cường Ba lấy một bộ y phục dự phòng trong ba lô của Max mặc lên người; thuộc hạ của Merkin xưa nay vẫn được trang bị rất đầy đủ. Bọn gã cần phải chuẩn bị sẵn sàng về mọi mặt, vì có thể nói, gã và Merkin hoàn toàn mù tịt về Bạc Ba La thần miếu này, có trời mới biết nơi đây có phải đầy rẫy các cơ quan bẫy rập, rồi các loại độc vật gì hay không. Chỉ riêng bộ xương khổng lồ trong giếng tế này thôi đủ khiến bọn gã phải e dè từng bước rồi. Mặc y phục xong, Trác Mộc Cường Ba tháo luôn giày của Max đi vào, rồi lấy các vũ khí cần thiết cùng các trang thiết bị dò đường đeo lên người. Gã nghĩ ngợi giây lát, rồi cũng ném cho Merkin một bộ vũ khí dự phòng, trong đó có một phần chính là do Max vừa lục soát thu được trên người Merkin. Trác Mộc Cường Ba hiểu rõ, đoạn hành trình tiếp sau đây sẽ là một chặng đường gã phải ngủ chung với hổ, nằm chung với rắn, bản thân cần hết sức tỉnh táo, cảnh giác đề phòng những đòn cắn trộm có thể ập đến bất cứ lúc nào từ ngay sát bên mình. Nhưng nếu để Merkin tay không tấc sắt tiến vào nơi cả hai cùng chưa biết gì này, chỉ cần Bạc Ba La thần miếu nguy hiểm bằng một nửa Đảo Huyền Không tự thôi, thì tỷ lệ tử vong của Merkin sẽ đạt đến một trăm phần trăm. Mà đúng như lời Merkin nói, ở nơi này, nếu không có trợ thủ, thì một mình Trác Mộc Cường Ba tiến lên sẽ cực kỳ nguy hiểm.
Sau khi cân nhắc nặng nhẹ, Trác Mộc Cường Ba lựa chọn bày tỏ thiện ý với sự thỏa hiệp của Merkin, gã biết Merkin là người thông minh, ở những nơi y có khả năng động thủ, chỉ cần gã cảnh giác đề phòng là được. Một khi tìm được pháp sư Á La và Lữ Cánh Nam, gã sẽ lập tức sẽ tách khỏi Merkin. Xét cho cùng, cho dù đối phương có tỏ ra thân thiện thế nào chăng nữa, gã cũng không muốn ở bên cạnh một nhân vật nguy hiểm trở mặt như trở bàn tay này.
Trác Mộc Cường Ba lấy thực phẩm nén trong ba lô ra, chia cho Merkin một phần, đảm bảo trong mấy tháng hai người không phải lo lắng về vấn đề thức ăn. Cuộc vật lộn vừa nãy đã khiến cả hai tiêu hao rất nhiều thể lực. Merkin không nói một lời, nhận số thực phẩm rồi bóc ngay một miếng cho vào miệng. Lần đầu tiên y nhận ra, sau khi toàn lực vật lộn một trận, rồi thao thao bất tuyệt nói liên tục mấy tiếng đồng hồ, thể lực đã tiêu hao hơn cả trải qua một trận đại chiến sinh tử.
Sau khi trang bị lại đầy đủ, hai người bỏ mặc cái xác của Max ở đó, một người từ bên trái, một người từ bên phải, bắt đầu tìm kiếm chỗ gió lùa vào. Chỉ lát sau, Merkin đã lớn tiếng gọi: “Trác Mộc Cường Ba, trên vách tường này có chữ.” Y cũng muốn gọi Trác Mộc Cường Ba bằng tên “Cường Ba” như những người khác, nhưng y biết Trác Mộc Cường Ba nghe vậy chắc chắn sẽ khó chịu, gọi bằng “ông chủ Trác” thì lại tự hạ thấp bản thân của mình, thôi thì trực tiếp gọi cả tên gã ra cho xong.
Trác Mộc Cường Ba vội chạy tới, chăm chú quan sát hồi lâu, rồi mới khẽ ậm ừ một tiếng. Merkin vội hỏi: “Thế nào, trên đó viết gì vậy? Có phải văn tế không?” Tuy y cũng nghiên cứu tiếng Tạng cổ, nhưng trước người được giáo viên chuyên nghiệp chỉ dạy như Trác Mộc Cường Ba, y không thể không tự nhận mình không bằng đối phương về mặt này.
Trác Mộc Cường Ba gật đầu: “Đúng là văn tế, ở đây nuôi một con mãnh thú tên là Ba m Ma Kha, dịch nghĩa là vương giả trên lục địa, sống lâu mấy trăm năm, tiếng gầm của nó có thể khiến Bạc Ba La thần miếu không bị các mê hồn oán hận xâm chiếm. Như ý tứ của bài văn tế này, cứ năm ngày lại có một lần hiến tế, tế phẩm chủ yếu là súc sinh, chỉ đến đại hiến tế mỗi năm một lần, mới dùng người làm vật hy sinh.“
Merkin lại liếc mắt nhìn về phía đống xương trắng khổng lồ kia: “Không có mảnh xương vụn nào khác à?“
Trác Mộc Cường Ba nói: “Nhìn kỹ xương hàm của nó mà xem, hàng phía trước là răng nhọn, dùng để cắn xé, phía sau đã tiến hóa thành răng nghiền rồi, hiển nhiên đây là một loại ác thú khổng lồ phàm ăn, cả xương cũng không nhả ra.“
Trong thời gian ở chung với ba anh em sói xám, Trác Mộc Cường Ba đã quá quen với cảnh ăn không chừa cả xương rồi, bản thân gã cũng dự phần vào đó. Gã lại nhắc nhở Merkin: “Trong mấy câu cuối cùng của bài văn tế này có nhắc đến hồ tế, lẽ nào chính là cái hồ ở bên ngoài kia? Trong hồ có…đọc thế nào đây nhỉ? Khố…Đặc…Hưng…Bố… Đặc…Khố? Nếu dịch theo nghĩa mặt chữ, thì hình như là Vạn xà chi vương? Nhưng ý tứ của ngữ cảnh, thì hình như con này là do một vạn con rắn ghép thành? Nếu có pháp sư Á La ở đây thì tốt quá, trong bài văn có rất nhiều điển cổ Mật tông mà tôi không hiểu được. Chúng ta phải đề phòng con Khố Đặc gì gì đó kia, ở đây nói nó có thể sống được một nghìn năm hoặc thậm chí lâu hơn, nó là bá vương dưới biển, bất cứ kẻ địch nào xâm phạm Bạc Ba La thần miếu đều trở thành thức ăn của nó cả. Giờ đây, nó được thờ phụng thành chủ của hồ tế, quấn mình quanh đỉnh thần miếu, cùng tồn tại với thần miếu, vĩnh viễn không phân ly. Toàn văn chỉ có vậy thôi, đi theo tôi, tôi tìm được cửa thông gió rồi.“
Merkin hỏi: “Vậy chủ của hồ tế kia rốt cuộc là thứ gì?” Lời vừa ra khỏi miệng, y lại sực nhớ đến mấy tên lính đánh thuê chìm xuống hồ, bấy giờ chỉ tưởng rằng đó là chuyện cỏn con ngoài ý muốn, giờ nghe Trác Mộc Cường Ba nói vậy, y mới chột dạ, nếu con quái vật đó còn sống, chắc hẳn sẽ trở thành một yếu tố cực kỳ nguy hiểm. Trác Mộc Cường Ba đáp: “Cụ thể là gì thì tôi cũng không rõ lắm, nhưng chắc chắn nó phải rất to lớn, ông cứ nhìn diện tích mặt hồ là có thể tưởng tượng ra rồi.” Vừa đi vừa nói chuyện, hai người đã đến chân tường, ở chỗ mặt đất và bức tường giao nhau có một hàng lỗ thông gió, khe hở chỉ rộng bằng một viên gạch, nhưng có đến bốn năm khe nằm liền kề nhau.
Merkin ngồi xổm xuống, lấy tay gõ thử: “Đây là đất nện lèn vào, nơi này vốn là một thông đạo có thể ra vào, về sau mới bị bít lại, chắc là để ngăn con mồi chạy thoát. Có điều, thông đạo này nhất định rất dài, chúng ta có thể nghĩ cách mở ra một con đường.
Về mặt này, Merkin thông hiểu hơn Trác Mộc Cường Ba một chút.
Trác Mộc Cường Ba nói: “Trong đống dụng cụ của ông mang theo, không có thứ gì dùng để đào đất.” Nói đoạn, gã liền dùng móng tay cào cào vào mặt tường theo thói quen, nhưng lại quên mất rằng mình không còn vuốt thú nữa, năm ngòn tay đau điếng mà chẳng thấy chút bụi đất nào rớt xuống, đủ thấy chỗ đất nện lèn vào cũng khá cứng.
Merkin cười cười: “Tôi không phải kiến trúc sư, tôi là cố vấn huấn luyện bộ đội đặc chủng, tôi chỉ hiểu biết về vũ khí thôi. Anh có biết gì về thuốc nổ dẻo không?” Nói đoạn, Merkin nhè bã kẹo cao su y vẫn nhai từ lúc ăn xong viên thực phẩm nén ra. Trác Mộc Cường Ba im lặng gật đầu quan sát thao tác của đối phương, thấy cũng tương đối đơn giản. Chỉ thấy Merkin kéo dài bã kẹo cao su ra, quấn thành một vòng tròn đường kính khoảng hai chục xăng ti mét, rối dùng giấy bạc bọc quanh một phần vòng tròn ấy, sau đó ở mép tờ giấy bạc vuốt ra hai sợi dây kim loại mảnh như sợi tóc, kéo được khoảng hơn một mét. Kế đó y lại lấy trong đống vũ khí của mình ra một thứ màu đen chỉ lớn hơn đồng xu một chút, lần lượt buộc dây kim loại vào hai đầu, không hiểu y ấn vào đâu mà hai ngọn đèn nhỏ một đỏ một xanh trên thiết bị màu đen đó liền nhấp nháy chớp sáng lên. Merkin ra hiệu cho Trác Mộc Cường Ba lùi lại, đoạn giải thích: “Chỉ cần vật nặng đè lên giấy bạc là có thể dẫn nổ bằng áp lực, nhưng để cho nổ các kết cấu hẹp dài, loại này còn có thể dẫn nổ bằng dây nữa.” Một tia chớp lóe lên, trên tường liền xuất hiện một cái hốc rộng khoảng một mét, cao hai mét, sâu cũng chừng hai mét, nham thạch hai bên cực kỳ kiên cố, không hề bị tổn hại chút nào. “Tiếng động nhỏ thế này, tin rằng sẽ không truyền đến bên ngoài được.” Merkin lại lấy một thanh kẹo cao su khác cho vào miệng nhai, đồng thời Trác Mộc Cường Ba cũng bắt tay dọn sạch các tảng đá bên trong cái hốc, chuẩn bị cho nó nổ lần thứ hai.
Hai người cứ thế tiến lên hai mét một, hai mét một, cứ tưởng rằng sẽ không thu hút sự chú ý của người trẻ tuổi kia, không ngờ, trên màn hình máy tính bỏ túi của kẻ đứng đằng sau khống chế toàn bộ đại cục ấy, hai chấm đỏ vẫn nhích lên từng chút một, hết sức rõ rệt. “Cuối cùng thì cũng hành động rồi hả.” Kẻ đó nhếch mép mỉm cười, như thể mọi thứ đều nằm trong lòng bàn tay. Lúc này, bọn họ vẫn đang ở trong cửa, thông đạo hình thành từ những cánh cửa xếp san sát vào nhau này dài hơn rất nhiều so với tưởng tượng của tất cả mọi người. Pháp sư Á La nhẩm tính bước chân, ít nhất họ cũng đã đi được hơn năm cây số, nhưng hai bên vẫn là kết cấu đó, trên cửa vẫn là những hình người trưởng thành trong tư thế thai nhi, không hình nào lặp lại hình nào. Đường hầm hơi uốn khúc, lại hơi chếch xuống dưới, tuy độ dốc rất nhỏ, độ cong cũng rất nhỏ, song pháp sư Á La có thể nhận ra được. Thậm chí ông còn cảm nhận họ đang đi men theo một vòng tròn khổng lồ, có chiều hướng hơi nghiêng xuống dưới. Có điều, theo cảm giác của những người bình thường, thì chẳng khác nào đang đi theo đường thẳng cả.
Càng tiến về phía trước, khoảng cách phải lùi lại càng xa, đất đá phải mang ra càng nhiều, Trác Mộc Cường Ba và Merkin làm việc như kiến thợ dọn nhà, cuối cùng cũng nổ được một đường hầm dài hơn trăm mét. Merkin đang định cho nổ lần nữa, trước khi gắn thuốc nổ dẻo lên, y vỗ vỗ lên mặt tường mấy cái, bỗng nghe tiếng vọng vang vang, liền mừng rỡ reo lên: “Đến cửa ra rồi, nghe tiếng vọng thế này, tầng đất nện chắc mỏng lắm rồi đấy.”
Y vừa dứt lời, Trác Mộc Cường Ba đã tung chân đạp một cú thật mạnh, lớp đất nện liền vỡ tung như vỏ trứng gà, ánh sáng mờ mờ lập tức len vào. Merkin cũng bồi thêm một cú nữa, cuối cùng cũng trông thấy ánh sáng. Liền ngay sau đó, hai người đều lấy làm lạ, sao lại có ánh sáng được chứ?
Hai người mặt mũi sưng vù thâm tím, đầu óc bê bết đất bẩn, trông như hai con chuột vừa đào hang xong, dè dặt thò đầu ra ngoài quan sát. Đây không ngờ là một thông đạo bên dưới đáy hồ, và lúc này, trời đã sáng bảnh lên rồi. Sau khi xác định con đường này không có cơ quan cạm bẫy gì, hai người mới chui hẳn ra. Không hẹn trước, hai người đều cảm khái thốt lên: “Thần kỳ quá!”
Thông đạo dưới đáy hồ này, hiển nhiên là một phần của tòa thành dưới nước mà họ trông thấy lúc họ đi qua mặt hồ, vô số cửa sổ lớn hình vòng cung, phần mép dưới đất đều dùng nguyên tấm kính lớn ghép vào, tạo thành một thông đạo trong suốt. Họ đang đứng ở lan can một tòa kiến trúc cực cao nào đó, ngẩng đầu nhìn lên, bầu trời như một vùng biển mênh mang, chỉ riêng những tia nắng chiếu xuống, khúc xạ qua những gợn sóng lấp lóa đã đủ khiến người ta phải kinh ngạc sững sờ, chứ chưa cần phải nói đến lũ cá sặc sỡ sắc màu khi tụ lại khi tản ra trong làn nước, càng không cần nói đến bản thân thông đạo tuyệt đẹp này làm gì nữa.
Thông đạo này có vẻ là một hành lang bên ngoài tường cung điện, nhìn qua ô cửa kính xuống bên dưới, lờ mờ trông thấy núi non hùng vĩ, khe sâu hiểm trở bên dưới đáy hồ sâu. Quan sát từ chỗ này, thần miếu tựa như một pháo đài cổ nguy nga xây bên vách đá sừng sững sâu trăm trượng, mà tòa pháo đài ấy lại được xây bên dưới hồ nước trong vắt, ánh sáng biến ảo liên tục, hoàn toàn khác với thế giới mà họ biết, như thể cách nhau cả một thời không vậy.
Vách bên trong của thông đạo vẽ đầy hình phi thiên thần Phật, suốt nghìn năm, những trân phẩm nghệ thuật này cũng vẫn không gợn chút bụi trần, tất cả đều vẫn sống động y như thật. Mà khi ánh dương xuyên qua mặt hồ, chiếu lên bức tường, những vị thần Phật trên tường cũng phảng phất như sống dậy, đạp lên mây lành mà lướt đi, tà áo bay lên phấp phới. Nhưng của báu thật sự phải kể đến những tấm thủy tinh lớn kia. Trác Mộc Cường Ba không nhớ rõ thủy tinh được phát minh ra từ thời nào, nhưng ít nhất gã cũng biết, đối với công nghệ sản xuất pha lê, khó nhất chính là khâu tinh luyện. Muốn thủy tinh trong suốt không màu, cần phải loại trừ tạp chất trong thủy tinh cực kỳ tinh chuẩn. Thử nghĩ xem, muốn tạo ra những tấm thủy tinh thử gõ đã thấy ít nhất dày mấy chục xăng ti mét vậy mà thoạt nhìn cảm giác trong veo như chỉ dày khoảng hai, ba mi li mét thôi, rốt cuộc cần phải có công nghệ tinh luyện cao đến mức nào chứ? Người thời xưa sao có thể làm được như vậy? Thế này có khác gì pha lê đâu, Trác Mộc Cường Ba thậm chí còn ngờ vực, không hiểu công nghệ thủy tinh hiện đại có đạt được trình độ thế này hay chưa nữa. Thêm vào đó, các tấm kính này ngâm dưới hồ bao nhiêu lâu như vậy vẫn trơn nhẵn bóng loáng, mặt ngoài không hề bám rong rêu, không thể không nói là một kỳ tích.
“Những khối thủy tinh này, chắc phải cần đến công nghệ rất cao mới tạo ra được nhỉ?” Trác Mộc Cường Ba bất giác hỏi một câu như thế.
“Nói một cách chính xác, có thể gọi chúng là tường lưu ly. Trong truyền thuyết về các kỹ nghệ dân gian thời cổ đại Trung Quốc, chế tác tường lưu ly chính là cảnh giới cao nhất của công nghệ lưu ly. Những bức tường lưu ly ở đây hiển nhiên đã dung nhập kỹ nghệ thủy tinh mang tính nghệ thuật của Trung Quốc cổ đại. Hầu hết các kỹ thuật quan trọng của hai loại kỹ nghệ này đều đã thất lạc trong dòng chảy dài của lịch sử, đặc biệt là kỹ nghệ chế tác lưu ly của Trung Quốc. Thời cổ đại ở Trung Quốc, tinh phẩm lưu ly đã trân quý không thua gì phỉ thúy, châu ngọc rồi. Từ 1000 năm trước Công nguyên, ở Trung Quốc đã có kỹ thuật chế tác lưu ly không màu, đến cuối thời Tùy, đầu thời Đường thì đạt đến đỉnh cao. Những thứ thần kỳ được nhắc đến trong tiểu thuyết và truyện ký như tường quang ảnh lưu ly, chén Phật lưu ly, dường như đều là sản phẩm của thời kỳ này. Sau đó, kỹ nghệ bắt đầu xuống dốc, đến nửa cuối triều Minh thì hoàn toàn biến mất, những trân phẩm còn sót lại trên thế gian thì ít như sừng lân lông phượng, người đời sau chẳng mấy ai được trông thấy.”
Merkin lúc nhìn những bức bích họa phủ khắp mặt tường, lúc lại quay sang những khối thủy tinh bị ánh sáng xuyên thấu qua ấy. Vốn là một cao thủ trộm mộ, hiển nhiên y nhận thức rõ hơn Trác Mộc Cường Ba về giá trị của những khối thủy tinh này, vừa nhìn thoáng qua, y đã nhận ra các khối thủy tinh và những bức họa trên tường vốn là một chỉnh thể thống nhất. Khi ánh mặt trời khúc xạ qua nước hồ, rồi lại khúc xạ một lần nữa qua khối thủy tinh, chiếu lên bích họa, tại sao những hình tượng trong tranh tựa như sống dậy như thế? Chỉ dựa vào bóng nước lung linh kia thôi sao? Rõ ràng như thế chưa đủ.
Nguyên nhân thực sự chính là bản thân những khối thủy tinh ấy.
Merkin nhanh chóng xác định, những khối thủy tinh thoạt nhìn tưởng chừng như không màu trong suốt này nhất định đã sử dụng kỹ thuật thấu ảnh và chiếu ảnh thần kỳ nhất của Trung Quốc cổ đại, giống như chiếc gương đồng Hương Ba La mật quang bảo giám của Trác Mộc Cường Ba vậy, khi ánh mặt trời chiếu qua, nó sẽ hắt hình ảnh lên tường khiến các hình ảnh trên bích họa từ mặt phẳng hai chiều trở thành hình lập thể ba chiều, sau đó lại lợi dụng hiệu quả của bóng nước, khiến họ thực sự như sống dậy. Không cần nghĩ ngợi Merkin đã thầm buột ra một lời tán thưởng trước những ô cửa sổ to lớn này: “Chỉ có ở đây, tuyệt thế vô song.”
Những khối thủy tinh chỉ cần nứt ra một khe nhỏ cũng có thể khiến nước hồ tràn vào thông đạo ấy, Merkin hận nỗi không thể dỡ hết toàn bộ chúng mà vác theo trở về!
TUYỆT MẬT NGŨ SẮC
Thông đạo vừa dài vừa hẹp, tuy rất cao, song lại gây cho người ta cảm giác bức bối khó chịu cực độ, nếu không có những trận gió mang không khí trong lành từ bên ngoài thổi vào, sợ rằng chỉ riêng đường hầm chật hẹp này cũng đủ khiến người ta phát cuồng lên rồi. Lại cả những hình người điêu khắc thoạt trông giống hệt như nhau nhưng nhìn kỹ lại mỗi hình mỗi khác ấy, bất luận là mặt lõm hay mặt lồi, rốt cuộc đều gây nên một cảm giác chung…quái dị! Bọn họ hình như đang đi lòng vòng, nhìn gương mặt nào hiện ra cũng như thể đã trông thấy rồi, nhưng cảm giác lại giống đang đi theo đường thẳng. Theo kiểu phàn nàn của bọn lính đánh thuê thì đi thế này, không khéo đã băng qua cả dãy Himalaya từ đời nào chẳng rõ rồi.
Bọn họ không biết mình đang ở đâu, chỉ biết nơi này là một đường hầm dài, do rất nhiều cánh cửa dày chừng một mét hợp thành, hai bên rìa cửa chạm khắc lồi và lõm những hình người ở tư thế của thai nhi trong bụng mẹ. Thông đạo hẹp nhưng cao, càng đi về sau càng có cảm giác không biết lối vào ở đâu, tận cùng ở nơi nào, chỉ có thể bầu bạn cùng những hình điêu khắc, thoạt trông thì bức nào cũng như nhau, song nhìn kỹ lại khác hẳn. Nếu chẳng phải nơi này không có lối rẽ, bọn lính đánh thuê sớm đã tưởng rằng mình đi lạc mất rồi, thậm chí có kẻ còn hoài nghi cả bọn đã trúng thứ pháp thuật gì đó, gây ra ảo giác tập thể, rồi lại có kẻ kêu lên đòi quay trở lại. Những tên lính đánh thuê giết người trong chớp mắt, máu bắn cao ba mét cũng không sơ, tráng sĩ chặt tay không nhíu mày ấy, đứng trước thông đạo hẹp dài này, không ngờ đã bắt đầu sợ hãi. Có lẽ, đầu bên kia đường hầm chẳng hề tốt đẹp như những gì chúng tưởng tượng, là báu vật khắp nơi, hay là một cảnh tượng như Địa ngục A tỳ đây? Nhìn những đường hầm tối tăm mù mịt đi mãi không hết trước mắt, nhìn những hình người điêu khắc ở hai bên, ai có thể nói mình không sợ hãi?
Người trẻ tuổi kia bảo Khafu ra lệnh cho bọn lính đánh thuê không được chộn rộn lên nữa, đồng thời cũng không ngừng hứa hẹn về vật chất để cổ vũ tinh thần cho chúng. Y hiểu rõ, một khi xảy ra hiện tượng sụp đổ tinh thần, ở nơi chật hẹp chỉ cho phép người đi qua này, bất cứ ai phát điên nổ súng cũng sẽ gây ra tổn thất cực kỳ lớn. Đường hầm này rõ ràng là một khảo nghiệm của người Qua Ba dành cho hậu nhân. Người thời xưa chẳng biết đến hệ thống tâm lý học là gì, nhưng không nghi ngờ gì nữa, họ lại chính là những bậc đại sư về tâm lý học. Đại đa số các kiến trúc tôn giáo cổ đại đều có thể gây cho người ta những rung động về mặt tâm lý, hoặc khiến người ta bình tâm lại, hoặc trang nghiêm điển nhã, khiến mỗi người nhìn thấy đều bấc giác sinh lòng kính ngưỡng, hoặc khiến con người bỗng thấy hối hận giác ngộ. Những kiến trúc ấy hòa nhập vào giữa đất trời tự nhiên, hài hòa song cũng lại độc đáo, thâm nghiêm, to lớn, vượt qua cả không gian và thời gian, nối liền mảnh tâm linh của người xây dựng và người triều bái lại với nhau, làm nảy sinh viễn tưởng và cảm ngộ vô cùng vô tận trong tâm tưởng.
Huống hồ tòa kiến trúc được mệnh danh là đại thành tựu tập trung kiến trúc cổ điển Trung Quốc và Tây phương từ khi nhân loại có lịch sử đến giờ, chỉ riêng những vật thí nghiệm nằm rải rác trên tầng bình đài thứ ba thôi, đã đủ gây cho những người đặt chân đến đây cảm giác rung động tận đáy tâm hồn bởi sự tinh mỹ tuyệt luân của chúng rồi. Còn tòa thần miếu, tòa thần miếu nghìn năm nay vẫn chưa có người đặt chân đến này, sẽ kể lại tâm trạng gì của người kiến tạo ra nó đây? Gã trẻ tuổi cúi đầu trầm tư, trước đây y cũng lý giải theo mặt chữ, muốn tiến vào Bạc Ba La thần miếu phải đi qua Cánh cửa Chúng sinh, chứ chưa từng nghĩ Cánh cửa Chúng sinh lại là một cánh cửa tuyệt đối không đâu có thế này: dày đến chục cây số, vạn hình người là vạn gương mặt; sau khi vượt qua Cánh cửa Chúng sinh, lại đến dòng sông Phù sinh, dòng sông ấy sẽ như thế nào đây? Đột nhiên, phía trước chợt vang lên tiếng hô khe khẽ: “Đến rồi!”
So ra, thông đạo chỗ Trác Mộc Cường Ba và Merkin rộng hơn, sáng sủa hơn hẳn. Lúc này, họ nhận định, mình thực sự đã đến thánh đường của những báu vật nghệ thuật. Tuy mới ở hành lang bên ngoài cửa thánh đường, nhưng mỗi viên gạch dưới chân, mỗi mặt tường bàn tay họ chạm vào, đều xứng đáng được gọi là kết tinh của nghệ thuật. Bất luận là hội họa, điêu khắc, trang trí tường, trang trí hành lang, hay hiệu quả ánh sáng, đều khiến người ta sinh ra cảm giác mộng ảo mê ly. Theo lời Merkin, thì chỉ cần Trác Mộc Cường Ba tùy tiện nạy một viên gạch lát sàn mang về, cũng đủ để mua lại cả tập đoàn nuôi luyện danh khuyển Thiên Sư của gã rồi.
Điều khiến Trác Mộc Cường Ba thực sự kinh ngạc là thái độ của Merkin với những món đồ gốm sứ.
Đó là những bình sứ cao ngang tầm người, thoạt nhìn không giống như sản vật của Tây Tạng, chắc là được đưa tờ nơi khác đến, cứ đi khoảng trăm mét lại có một cái, lặng lẽ dựng ở chân tường. Tòa cung điện dưới đáy hồ này như thể đã bị người ta sử dụng loại ma pháp gì đó, xung quanh không thấy một hạt bụi, tinh khiết như bầu trời. Những bức bích họa và các đồ gốm sứ vẫn còn nguyên sắc màu tươi mới rực rỡ.
Bình sứ đầu tiên họ trông thấy có màu xanh lam, màu xanh lam như màu trời sau cơn mưa.
Có điều, theo Trác Mộc Cường Ba dạng thức của những bình gốm sứ này hết sức bình thường, trên phố lớn của những đô thị hiện đại, trước cửa một số cửa hàng gốm sứ hoặc tranh chữ, người ta thường thích đặt một đôi bình gốm cỡ lớn kiểu này, phần dưới tròn thon dài, trông như mỹ nữ yểu điệu, nhưng miệng bình, cổ bình lại hành hình bát giác.
Vì vậy, gã hết sức khó hiểu trước sự kích động của Merkin, chỉ một cái bình hoa như thế, sao có thể khiến người như Merkin kích động đến độ thất thố thế kia chứ?
Trác Mộc Cường Ba đang chầm chậm vừa bước đi vừa ngắm nhìn những bức bích họa đẹp tuyệt trần, bỗng thấy Merkin sáng bừng hai mắt, rảo chân chạy nhanh lên phía trước, mấy lần sém chút nữa loạng choạng ngã nhào, rồi đột nhiên dừng phắt lại trước cái bình hoa đó, nín thở tập trung hết tinh thần nhìn chằm chằm, bàn tay run rẩy đưa lên, lúc thì dùng đầu ngón tay phác theo đường nét của cái bình, lúc lại nhè nhẹ vuốt ve như thể đang mơn trớn làn da tình nhân, có lúc lại đưa ống tay áo cẩn thận lau chùi bề mặt vốn đã không bám một hạt bụi, cứ như làm vậy có thể khiến nó thêm sáng bóng.
Bộ dạng yêu mến không nỡ rời tay ấy, khác nào một người cha hiền lần đầu tiên nhìn thấy con mình xuất hiện trên đời, khao khát được ôm lấy nó trong lòng, áp mặt vào nó, hôn một cái, má chạm má, trán cọ vào trán.
“Quý giá lắm sao?” Đối với Trác Mộc Cường Ba, thứ duy nhất có thể thu hút sự chú ý của gã là màu sắc bình sứ, màu xanh lam tươi sáng ấy, thực sự rất hiếm thấy.
“Đây là bình sứ lớn đấy!”Merkin kích động đến nỗi lạc cả giọng, một phát hiện trọng đại thế này, y chỉ hận không thể cho cả thế giới này nghe thấy tiếng gào thét trong lòng mình.
Thấy bộ dạng bình thản chẳng hiểu đầu cua tai nheo gì của Trác Mộc Cường Ba, lòng Merkin bất giác trào lên một thứ cảm giác thất bại, giữa thời khắc lịch sử quan trọng nhường này, ở bên cạnh y lại chẳng có người tri âm tri kỷ, nghĩ cũng thật buồn. Nhìn bộ dạng của Trác Mộc Cường Ba, chắc hẳn có đặt thứ đồ gốm sứ cổ lừng danh khắp thế giới của Trung Quốc bên cạnh đồ thủ công mỹ nghệ hiện đại, gã cũng chẳng phân biệt được thứ nào tốt thứ nào xấu nữa. Song rốt cuộc, Merkin cũng không kìm chế được run run giọng phổ biến kiến thức cho Trác Mộc Cường Ba. “Anh đừng nhìn mà tưởng tạo hình của nó giống với đồ phỏng chế ngày nay, anh phải đặt nó vào trong dòng sông dài lịch sử ấy, thử tưởng tượng xem, đây là kết tinh trí tuệ của người Trung Quốc cổ đại các anh từ một nghìn năm trước đấy! Có thể nung ra được bình sứ lớn thế này, đòi hỏi trình độ công nghệ cao đến mức nào chứ? Anh có thể tưởng tượng được không? Muốn nung được đồ sứ lớn thế này, cần phải có lò nung lớn hơn bản thân nó nhiều. Cái bình này nếu không được xuất hiện trên thế gian, người đời sẽ vĩnh viễn không bao giờ biết, người Trung Quốc các anh một nghìn năm trước đã có thể nung ra sản phẩm gốm sứ hoàn mỹ thế này rồi.”
Trác Mộc Cường Ba rốt cuộc cũng gật đầu: “Ý ông là, đây là một tác phẩm có thể viết lại lịch sử ngành gốm sứ?“
“Đâu chỉ đơn giản có thế!” Merkin đột nhiên cao giọng, bộ dạng càng thêm kích động: “Anh nhìn màu sắc của nó xem, đã bao giờ anh trông thấy đồ sứ có màu sắc thế này chưa? Hoàn mỹ quá thể! Đây chính là món đồ thuộc hàng truyền thuyết trong lịch sử ngành gốm sứ Trung Quốc các anh đấy, tuyệt mật ngũ sắc! Tôi nằm mơ cũng không thể ngờ được chúng thực sự tồn tại trên đời này, lại còn ở ngay trước mắt tôi nữa chứ, ha ha ha ha ha!” Nghe tiếng cười của y, dường như bắt đầu hơi mất lý tính rồi.
Trác Mộc Cường Ba chưa từng nghe nói đến tuyệt mật ngũ sắc, đương nhiên không thể đáp lời y, nhưng Merkin lúc này chỉ có gã là thính giả duy nhất, nên y cũng mặc kệ, chẳng quan tâm Trác Mộc Cường Ba có muốn nghe hay không, cứ thao thao bất tuyệt: “Tuyệt mật ngũ sắc anh chưa nghe nói bao giờ, nhưng đồ sứ bí sắc thì chắc là phải biết chứ? Không biết hả? Ok, vậy tôi hỏi anh, anh có biết gốm Nhữ thời Tống không?”
Thứ này thì Trác Mộc Cường Ba biết, gốm Nhữ thời Tống có thể nói là tinh phẩm trong các loại gốm sứ, bề mặt láng mịn trơn bóng, là con cưng được giới sưu tầm đồ gốm săn lùng ác liệt nhất, có điều, ngoại trừ trong viện bảo tàng, đồ gốm Nhữ xịn ngoài đời rất ít, chỉ xuất hiện trong các buổi đấu giá, mà thấp nhất cũng phải chi ra trên chục triệu mới mua được(8).
Thấy Trác Mộc Cường Ba gật gật, Merkin lại nói: “Thời Tống có năm lò gốm sứ lớn, Nhữ, Quan, Ca, Định, Quân. Gốm Nhữ đứng đầu. Anh có biết, lò gốm Nhữ xây phỏng theo cái gì không? Phỏng theo lò gốm Sài đấy! Tương truyền, trong năm lò gốm thời Tống, gốm Sài mới là đứng hàng đầu, chỉ là giờ không còn sản phẩm nào trên thế gian, cũng không tìm được di chỉ lò gốm, nên mới thay bằng gốm Quân cho đủ số. Lò gốm này được vị vua cuối cùng của thời Ngũ Đại Thập Quốc, Châu Thế Tông hạ lệnh xây dựng. Theo ghi chép trong bút ký tiểu thuyết, bấy giờ Châu Thế Tông hạ lệnh xây một lò gốm nung ra thứ đồ gốm sứ tốt nhất. Ông ta muốn màu sắc của sản phẩm giống y như trời xanh sau cơn mưa, mang theo niềm hy vọng quốc vận cũng như trời hửng sau mưa. Hậu thế đã đánh giá đồ gốm Sài thế này: xanh như trời, sáng như gương, mỏng như giấy, tiếng vang như khánh. Về sau, Tống Thái Tổ xây lò gốm Nhữ, ông ta chỉ đưa ra một yêu cầu, chính là làm sao giống được gốm Sài vậy. Nhưng rốt cuộc, các bậc sĩ đại phu trong triều hay đám văn nhân học sĩ, bất kể là ai, đều không thể thửa nhận, so với gốm Sài, thì gốm Nhữ thiếu đi cái linh khí của thiên địa! Thời Tống ấy, gốm Sài đã được tôn sùng là cảnh giới cao nhất của đồ gốm, là món kỳ trân cực kỳ hiếm gặp, người đời chỉ có nghe chứ chẳng mấy ai được tận mắt trông thấy. Từ thuở bấy giờ, người ta coi việc có thể sưu tầm được một món đồ gốm Sài, dẫu chỉ một mảnh nhỏ thôi cũng đã là vinh hạnh lớn trong đời. Đại văn hào u Dương Tu cũng từng kiếm được một mảnh vỡ của gốm Sài, anh biết ông ta gìn giữ mảnh gốm vỡ ấy thế nào không? Ông ta dùng vàng bọc nó lại, rồi bỏ trong hộp gấm khảm bảo thạch bên ngoài, dường như chỉ có làm như thế mới thể hiện được mức độ trân quý của mãnh vỡ gốm Sài ấy mà thôi.”
Merkin thao thao bất tuyệt nói một hơi dài rồi mới ngưng lại giây lát. Đúng như y dự đoán, Trác Mộc Cường Ba liền hỏi một câu: “Tuyệt mật ngũ sắc là tinh phẩm của gốm Sài? Không đúng, Bạc Ba La thần miếu này từ đời Đường đã…”
Merkin ngắt lời nói: “Đương nhiên không phải vậy, tôi hỏi anh tiếp, anh có biết, tại sao đồ gốm Sài được tôn làm chỉ tôn của đồ gốm thời Tống hay không? Tại sao lò gốm Nhữ sau này không thể nung ra được sản phẩm giống như thế? Điều này không hề được ghi lại trong chính sử và các tài liệu chính thức, chỉ từng được đề cập đến trong bút ký tiểu thuyết thôi. Đó là bởi, trong thời loạn thế Ngũ Đại Thập Quốc, các thợ gốm đã tình cờ có được tàn quyển của một pho sách tổng kết tinh yếu của nghề nung gốm. Dựa vào ghi chép trong tàn quyển ấy, rốt cuộc họ đã pha được màu lam thuần như thể sắc trời sau cơn mưa, đồng thời cũng nhờ vào hướng dẫn trong đó, họ mới nung ra được thứ gốm sứ mỏng như tờ giấy, tiếng vang như khánh đó. Về sau, thời thế đổi thay, triều đại cải biến, các thợ gốm ấy đều muốn chiếm phương pháp bí mật đó là của riêng, khiến cho tàn quyển biến mất, công nghệ thất truyền! Tôi nghĩ chắc anh đoán được, trong cuốn tinh yếu đó ghi chép lại những gì. Không sai, chính là loại gốm sứ thần bí nhất trong lịch sử đồ sứ Trung Quốc, ngay từ thời Tống đã trở thành truyền thuyết, thế nhân không ai trông thấy…gốm sứ bí sắc!”
Hai mắt Merkin sáng rực lên như có điện, y lại chăm chú nhìn cái bình sứ, lẩm bẩm một mình: “Đồ gốm sứ bí sắc được nung vào thời đại nào, đây cũng là câu đố nghìn năm trong lịch sử gốm sứ Trung Quốc các anh. Giống như gốm Sài, có rất nhiều nhà sưu tầm thời cổ đại mở mồm ra là khăng khăng khẳng định, nói như thật, nhưng không thể đưa ra vật chứng gì nên hồn cả, cho đến ngày nay, những nhà nghiên cứu gốm sứ Trung Quốc các anh cũng vẫn chưa biết thế nào mới gọi là tinh phẩm của gốm Sài. Còn về gốm bí sắc, đại đa số các học giả cho rằng, đó là sản phẩm của thời Ngũ Đại, cho đến khi khai mở địa cung ở chùa Pháp Môn(9), mới dám đẩy lùi niên đại đến cuối thời Đường, nhưng có một điểm mà đa số các chuyên gia đều nhận định giống nhau, gốm sứ bí sắc là do gốm Việt nung ra. Gốm Việt phát tích ở mạn Giang Chiết, các vùng Thiệu Hưng, Ninh Ba xưa có người Việt cư trú, nên được gọi là lò gốm Việt, dựa theo các di chỉ lò gốm đã phát hiện, có thể truy ngược lại thì thấy từ thời Hán, đến thời Đường gốm bí sắc được tiến cống vào cung đình, chỉ dành riêng cho giới quyền quý. Cửu thu phong lộ Việt dao khai, đoạt sắc thiên phong thủy sắc lai(10); Xảo uyển minh nguyệt nhiễm xuân thủy, khinh tuyển bạc băng thịnh lục vân(11), đó đều là những câu thơ của hậu nhân tán tụng vẻ đẹp của gốm sứ bí sắc.”
Càng nói càng xúc động, Merkin còn lẩy ra mấy câu thơ đường, rồi liền đó lại nghiêm mặt nói tiếp: “Nhưng thực ra, các sản phẩm được nung vào thời sơ Đường thịnh thế, thậm chí chỉ có triều vua khai quốc mới nung ra được. Dựa theo các bút ký tiểu thuyết ma tôi nghiên cứu, cuối thời Tùy đầu thời Đường, thiên hạ đại loạn, nhưng trước thời loạn thế ấy, Trung Quốc các anh có quốc lực rất vững chắc, rất nhiều ngành công nghệ đã đạt được những đột phá nhảy vọt. Có câu, loạn thế xuất anh hùng, loạn thế xuất thần khí, chính tông của gốm sứ bí sắc, ngũ sắc tuyệt mật, chính là xuất hiện trong thời loạn thế ấy! Các tiểu thuyết gia lại viết rằng, các sắc đó xanh như biển, vàng như hoàng kim, đỏ tựa lửa, trắng ngang tuyết, đen hơn mực, gọi là ngũ sắc tuyệt mật, thần khí giữa thời loạn thế. Tương truyền, chúng cực kỳ nổi bật, lung linh tuyệt thế, óng ánh hơn cả băng tinh, chỉ nên có ở trên trời chứ không nên giáng hạ xuống cõi phàm trần này, đến nỗi cung đình phải niêm phong, coi là tuyệt mật. Điều đáng tiếc nhất là, kỹ thuật chế tác loại gốm sứ này chưa từng được ghi chép lại, mà chỉ truyền miệng. Mà thời bấy giờ cũng chỉ có một người thợ gốm già có thể nung ra được đồ gốm ngũ sắc tuyệt mật, về sau tuy ông ta cũng có nhiều đồ đệ, song chưa ai học được cốt tủy chân chính cả. Sau khi người thợ gốm già vô danh ấy chết đi, các đồ đệ của ông ta dựa theo những gì sư phụ truyền miệng, cộng với lý giải của bản thân, đã nung ra thứ đồ gốm sứ mà người đời sau gọi là gốm sứ bí sắc. Rồi có người lại dựa theo phần lĩnh ngộ của các đồ đệ ấy, chỉnh lý biên soạn ra một quyển tinh yếu về thuật nung gốm sứ bí sắc. Quyển sách này đã lưu lạc qua tay nhiều người, trải qua vô số chiến tranh loạn lạc, trở nên tàn khuyết không còn toàn vẹn nữa. Về sau, các thợ gốm thời Ngũ Đại chỉ dựa vào tàn quyển này mà có thể nung ra được gốm Sài. Chỉ là thứ tàn phẩm như gốm Sài, mà đã được tôn xưng là đỉnh cao của gốm sứ đương thời rồi. Anh thử nghĩ xem, ngũ sắc tuyệt mật rốt cuộc phải gọi bằng danh xưng gì đây? Nếu nói trong đồ gốm sứ cũng có thần khí, vậy thì trước mắt chúng ta đây, chính là một trong số đó!”
Trác Mộc Cường Ba rốt cuộc cũng thay đổi nét mặt, nhưng nếu bảo gã bị Merkin thao thao bất tuyệt thuyết phục thì không chính xác lắm, phải nói là gã bị nét mặt Merkin làm cho cảm động thì đúng hơn. Khi nói đến mấy câu cuối cùng, giọng y đã trở nên nghẹn ngào, khóe mắt rưng rưng, ánh mắt long lanh như thể sắp rơi lệ đến nơi. Ánh mắt ấy toát lên một vẻ quyết liệt, tựa hồ “sáng nghe giảng đạo, tối chết cũng không hối tiếc” vậy, đồng thời, trong đôi mắt y cũng không giấu nổi vẻ thỏa mãn của người trải qua bao tang thương cuộc đời, cuối cùng cũng hoàn thành tâm nguyện. Cả tòa Bạc Ba La thần miếu rộng lớn, thậm chí còn chưa đặt chân bước vào điện đường thực sự, mới chỉ nhìn thấy một cái bình sứ ở ven đường, Merkin đã cảm thấy thỏa mãn, cảm thấy đáng giá, cảm thấy đủ đầy rồi. Trải qua cả hành trình đầy rẫy những khảo nghiệm sinh tử, đầy rẫy những cuộc đấu trí đấu sức cực kỳ khó khăn, để rồi được nhìn thấy, được chạm vào một món đồ sứ thế này thôi, y cũng thấy đủ lắm rồi.
“Hắn khóc à?” Trác Mộc Cường Ba thực sự không thể ngờ, một tên cố vấn huấn luyện lính đặc chủng thân thủ phi phàm, lạnh lùng tàn khốc, giảo hoạt đa đoan như Merkin, lại không kiềm chế được cảm xúc của mình trước một cái bình sứ. Chỉ riêng điểm này thôi đã khiến gã hiểu được giá trị của cái bình này to lớn đến nhường nào rồi.
“Sao ông hiểu rõ vậy?” Trác Mộc Cường Ba hỏi bâng quơ một câu.
Merkin vẫn đang si si mê mê, tựa như nhất thời đắc ý quên đi hết thảy, không nghĩ ngợi gì buột miệng đáp ngay: “Anh tưởng tôi là một tên lính biệt kích đặc chủng chắc, tôi lợi hại, bởi tôi là một giám thưởng sư!” Lời vừa ra khỏi miệng, y tức thì cảm thấy không được ổn cho lắm, có điều, tâm trí y nhanh chóng lại bị món đồ gốm ngũ sắc tuyệt mật kia xâm chiếm, thiết tưởng Trác Mộc Cường Ba cũng không thể nghe ra điều gì từ câu nói ấy cả.
“Nào, đến đây mà xem!” Bộ dạng của Merkin lúc này giống hệt như một gã nhà giàu mới nổi được thừa kế một món tài sản khổng lồ, chỉ nao nức muốn khoe khoang với người đời các vật báu mà mình sở hữu: “Nhìn thấy chưa?” Y chỉ ngón tay cách bề mặt bình sứ chừng mười xăng ti mét, hỏi Trác Mộc Cường Ba. Trác Mộc Cường Ba bèn gí mắt vào quan sát, cảm giác lớp men sáng trong lạ thường, như bọc bên trong một lớp băng mỏng, thậm chí có thể soi gương được. Song phía trên lớp băng tinh này lại tựa hồ như có một làn hơi sương mông lung mỏng mảnh, cảm giác như những luồng không khí biến ảo bốc ngùn ngụt trên sa mạc nóng giãy.
Merkin giải thích: “Xưa vốn có câu, “châu quang bảo khí“, phàm là bảo vật chân chính, bên ngoài đều hình thành một tầng khí trường thần bí, phảng phất có thể nhìn thấy, nhưng quan sát kỹ lại chẳng thấy gì, trong nghề gọi đó là “tôi hỏa“. Một món bảo vật quý giá, hỏa khí thu vào bên trong, ngưng tụ mà không phát ra, ấy mới là cảnh giới cao nhất.” Nói đoạn, y khẽ thở hắt ra một hơi, cũng thật lạ lùng, hơi thở phả ra từ miệng Merkin hoàn toàn không có hình sắc, nhưng vừa đến gần cái bình sứ, liền bắt đầu biến thành một quầng hơi sương trắng nhàn nhạt có thể trông thấy được, ẩn ẩn hiện hiện, rồi lại hóa thành vô hình vô ảnh.
“Nhìn thấy chưa!” Merkin hoan hỉ như sắp phát cuồng, lại nói tiếp: “Đây gọi là Ngưng khí thăng hàn yên, kỹ thuật cao nhất trong công nghệ nung gốm thứ thời cổ đại. Món đồ sứ này mùa đông thì ấm áp, mùa hè lại mát lạnh. Anh sờ thử mà xem, sờ đi, cứ sờ đi, có cảm giác gì không? Có phải như thể chạm vào mỡ đặc, trơn láng như mặt trẻ con hay không? Cảm giác mát rượi như thấm vào tận tâm can ấy có lan dần từ đầu ngón tay đi khắp toàn thân anh hay không?”
Merkin nhẹ nhàng áp tay vào hai bên chiếc bình, hít sâu một hơi, cực kỳ cẩn thận nâng lên một chút, sau đó nhè nhẹ đặt xuống, đoạn nói với Trác Mộc Cường Ba: “Anh thử xem sau đó cho tôi biết, có giống với mấy cái bình sứ chế tác bằng công nghệ hiện đại mà anh hay gặp trên phố hay không, cẩn thận…cẩn thận chứ!”
Trác Mộc Cường Ba vẫn chưa dồn chút sức nào, cái bình đã được nhấc bổng lên khỏi mặt đất, cảm giác như thể trên tay gã không phải là cái bình to tướng cao ngang người trưởng thành vậy, gã cũng biết những bình sứ chế tác theo công nghệ hiện đại, muốn cao thế này ít nhất cũng phải hai đến ba chục cân chứ chẳng chơi. Gã ngạc nhiên liếc Merkin, chỉ thấy y nhếch mép cười cười nói: “Mỏng như giấy, tiếng vang như khánh”. Dứt lời y cong đốt thứ hai của ngón trỏ lại, khẽ gõ nhẹ một tiếng vào chỗ dày nhất trên bình.
“Coong…” âm thanh ngân dài, người xưa nói tiếng vang như khánh. Khánh là một loại nhạc cụ bằng đá, âm thanh phát ra trong vắt mà tao nhã vô cùng. Nhưng theo cú gõ nhẹ ấy của Merkin, bên tai Trác Mộc Cường Ba vang lên một thứ âm thanh mà đá không thể nào phát ra được, tưởng chừng như có ai lướt nhẹ trên sợi tơ đàn bằng kim loại, tiếng rung mảnh mai mà cao vút lên như tiếng rồng ngâm, ngân suốt hồi lâu chưa dứt. Càng lúc âm thanh đó càng cao, khí thế chừng như muốn vút lên tận mây trời. Dần dần, âm thanh từ khắp bốn phía vọng về, cả hành lang dài tựa như có rất nhiều con rồng đang ẩn mình tiềm phục lần lượt giật mình thức giấc khỏi giấc ngủ nghìn năm, tiếng ngân vang vang khắp các cõi đất trời.
Tiếng rồng ngâm ấy, từ khắp bốn phía trước sau phải trái vọng vào tai người ta, ánh dương lấp lóa, những nhân vật thần tiên trên các bích bức họa cũng nhờ tiếng rồng ngâm hổ gầm đó mà càng thêm sống động, đạp mây muốn bay vút ra khỏi bức tường, Trác Mộc Cường Ba và Merkin đưa mắt nhìn nhau, cả hai đều đã nhận ra được chút manh mối từ tiếng ngân vang vọng khắp bốn phía xung quanh ấy. Đó là …cộng hưởng!
Không thể tin đây là sự thật. Trên đời này, còn có thứ gì kích động lòng người hơn một nhà giám thưởng tác phẩm nghệ thuật nhìn thấy một tác phẩm tuyệt thế chứ? Đó chính là, một nhà giám thưởng tác phẩm nghệ thuật, nhìn thấy một tác phẩm tuyệt thế!
Trác Mộc Cường Ba bám sát theo Merkin chạy lên phía trước. Bọn họ đã trông thấy chiếc bình tuyệt mật ngũ sắc thứ hai…đỏ như lửa…