Hiệp Cốt Đan Tâm

Chương 48: Thấy dấu kiếm lạ trên nhẫn ngọc Hoàn thành tâm nguyện tìm đồng môn



Kim Thế Di nói:

“Đúng thế. Lúc đó tôi đã dùng công phu Đàn chỉ
thần thông bắn vào kiếm của đối phương, y tuy đánh rơi kiếm nhưng đã để
lại vết kiếm trên chiếc nhẫn hàn ngọc của tôi. Cũng may mà tôi đeo chiếc nhẫn này, nếu không đã không giữ được ngón tay?”.

Mọi người nghe Kim Thế Di nói thì đều ngạc nhiên, nhất là những người biết lai lịch của hàn ngọc lại càng kinh hoàng thất sắc!

Hàn ngọc là một loại bảo bối có thể phòng thân, trong số ba món báu vật Kim Thế Di lấy được ở bảo tàng của Kiều Bắc Minh, có một bộ cung tên do hàn ngọc chế thành. Sau đó Kim Thế Di đã đánh bộ cung ngọc thành một bộ
giáp bằng ngọc, tặng cho Cốc Trung Liên. Ba mũi tên đánh thành ba chiếc
nhẫn ngọc tặng cho Lệ Nam Tinh, Kim Trục Lưu, còn một chiếc thì giữ lại. Hàn ngọc rắn chắc vô cùng, nay thấy trên chiếc nhẫn ngọc có vết kiếm,
mọi người có thể biết không những người đó đã sự dụng bảo kiếm mà công
lực cũng tương đương Kim Thế Di.

Công phu Đàn chỉ thần thông của
Kim Thế Di độc bá thiên hạ, thế nhưng dù búng rơi kiếm của đối phương mà vẫn bị đối phương chém vào chiếc nhẫn thì coi như đôi bên đã hòa.

Mọi người đều nhao nhao hỏi:

“Người ấy là ai? Hiện giờ ở đâu?” Cả Giang Hải Thiên cũng ngạc nhiên, hỏi:

“Sao sư phụ lại giao thủ với người ấy, y có phải là kẻ địch của chúng ta không?”.

Kim Thế Di nói:

“Ta không biết lai lịch của bọn người này, nhưng biết thế nào bọn chúng
cũng tìm đến con. Nói cách khác bọn chúng là địch thủ của con”.

Kim Thế Di dùng “bọn người này”, rõ ràng không phải là một người, mọi người càng thêm ngác nhiệm Kim Trục Lưu nói chưa đứt lời chợt nghe bên ngoài
có tiếng ồn:

“Ai thế?”.

“Ngươi đến đây làm gì?”.

“Bọn chúng ta không quen các hạ, nếu các hạ muốn tìm Giang đại hiệp lát nữa bọn ta sẽ thông báo”.

Xem ra bên ngoài có người lạ đến, mà những người này lại tìm Giang Hải Thiên.

Nhưng chỉ nghe tiếng ồn của người canh cửa chứ chẳng nghe tiếng của bọn người nọ.

Trọng Trường Thống hừ một tiếng:

“Quả nhiên đã tìm đến nơi, chúng ta ra xem thử tên tiểu tử nào lớn gan đến thế?”.

Giang Hải Thiên vội chạy ra trước, vừa ra đến cửa đã gặp liền người ấy. Chỉ
thấy người ấy đang dùng một chiêu Đồng tử bái Quan âm vái dài Giang Hải
Thiên. Những người đứng bên cạnh Giang Hải Thiên đều té liểng xiểng!

Công Tôn Hoằng ở phía sau, cả kinh:

“Lão ăn mày, đây là Bát nhã chưởng lực của Phật môn chính tông!”.

Trọng Trường Thống cười rằng:

“Đúng thế, Công Tôn lão đệ, ông thật tinh mắt!”.

Giang Hải Thiên vái lại trả lễ, chỉ thấy người ấy hơi nhún vai, tà áo của
Giang Hải Thiên cũng gợn sóng như nước, xem ra Giang Hải Thiên công lực
cao hơn. Công Tôn Hoằng không nhận ra người ấy, trong lòng thầm ngạc
nhiên:

“Kẻ địch của Giang Hải Thiên tìm đến nơi, sao lão ăn mày
lại hớn hở như thế? Bát nhã chưởng có thể đả thương kỳ kinh bát mạch,
nếu Giang đại hiệp bị thương thì chẳng phải chuyện chơi!”.

Nghĩ chưa dứt, chợt thấy Giang Hải Thiên nắm chặt tay người ấy, cười ha hả:

“Diệp đại ca, Bát nhã chưởng của huynh đã luyện thành công, tiểu đệ hổ thẹn không bằng. Bội phục, bội phục!” Người nọ đáp:

“Hai mươi năm không gặp, công lực của huynh cao hơn trước nhiều. Dù tôi luyện thế nào cũng không thắng nổi huynh. Mộ Hoa đâu?”.

Lúc này Công Tôn Hoằng mới biết kẻ ấy là người quen, mọi người cũng thở phào.

Té ra người này chính là Diệp Xung Tiêu. Diệp Xung Tiêu ít khi đến Trung
Nguyên, hơn hai mươi tuổi đã ra đảo cho nên các nhân vật võ lâm Trung
Nguyên ít người biết đến ông ta.

Kim Thế Di cười lớn:

“Ai
cũng có sở trường, nếu luận về Bát nhã chưởng, Hải Thiên không bằng Xung Tiêu, luận về kiếm pháp ta chưa chắc thắng tên tiểu tử hậu sinh đêm
qua”.

Diệp Xung Tiêu nói:

“Thế bá đã quá khen, tôi còn kém Giang huynh nhiều lắm, nhưng công phu ám khí và kiếm chưởng của những
người ấy thật hiếm có trên đời, nếu không có thế bá đứng bên cạnh, tiểu
diệt đã thua to”.

Trọng Trường Thống nói:

“Chuyện gì đã xảy ra đêm qua?”.

Kim Thế Di đáp:

“Chính là chuyện tôi vừa mới nói”.

Khi nói đến chuyện này, ai nấy cũng tò mò muốn biết kẻ đã thắng Kim Thế Di một chiêu là ai.

Kim Thế Di chợt cười rằng:

“Họ đã đến, Hải Thiên, cứ để Trung Liên kể cho con nghe vậy”.

Nói chưa dứt lời có vài người chạy vào báo:

“Hai đời chưởng môn của phái Mang Sơn đều đến đây!” Giang Hải Thiên cả mừng:

“Té ra sư mẫu cũng đến”.

Nói chưa dứt lời đã thấy Cốc Chi Hoa và Cốc Trung Liên cùng bước vào, đi
với họ lại còn có cả Âu Dương Uyển và Cam Nhân Long, người đứng đầu
trong bốn đại đệ tử của phái Mang Sơn.

Giang Hải Thiên chợt vở lẽ:

“Sư phụ, có phải sư phụ gặp những cao thủ ấy trong nhà của con không?”.

Kim Thế Di nói:

“Đúng thế, những kẻ này là cao thủ của triều đình phái đến đối phó với vợ chồng các con”.

Cốc Trung Liên nói:

“Sáng hôm qua, Cam sư huynh và ba vị đồng môn từ Mang Sơn vội vã chạy tới,
bảo rằng nghe tin triều đình đối phó với muội. Quả nhiên đến tối bọn
người ấy dẫn xác tới. May mà chúng tôi phòng bị cho nên không hề thương
tổn gì. Bọn này gồm có bảy tên, có cả nam lẫn nữ, võ công ai nấy cao
cường! Thật hổ thẹn, muội chẳng biết lai lịch của bọn chúng. Sau một hồi ác chiến, Bạch sư huynh, Lộ sư huynh, Lý sư huynh đều bị trọng thương,
muội và Cam sư huynh may mắn không bị thương nhưng cũng sức cùng lực
kiệt, không thể nào chống cự được nổi. Bọn người này bao vây muội và Cam sư huynh, buộc chúng tôi đầu hàng. Lúc đó muội đã định tự cắt đứt kinh
mạch, thà chết chứ không chịu, không ngờ trong lúc nguy ngập thì sư phụ, sư mẫu cùng đại ca, đại tẩu đã đến, chúng tôi mới chuyển bại thành
thắng!”.

Mọi người nghe thế đều kinh hãi, Kim Thế Di nói:

“Đây không phải là chuyện trùng hợp, chúng tôi đến Mang Sơn mới biết tin này”.

Diệp Xung Tiêu tiếp lời:

“Khi chúng tôi đến nơi nghe tiếng binh khí giao nhau, tôi sơ ý nào ngờ đã thua thiệt”.

Số là Diệp Xung Tiêu đã luyện thành đại thừa Bát nhã chưởng, khi về đến
Trung Nguyên đang muốn tìm cơ hội thử xem sao. Khi ông đến nhà họ Giang
thì Cốc Trung Liên đang bị bao vây. Ông ta tuy biết bọn người này rất
ghê gớm nhưng cũng sơ ý, một mình phóng lên.

Lúc đầu Diệp Xung
Tiêu cũng nghĩ như thế, nhưng khi thấy bọn họ đánh vài chiêu thì mới
biết không xong. Thế rồi vội vàng ra tay nhưng cũng đã muộn nửa bước.

Diệp Xung Tiêu cười khổ sở nói:

“Bảy người này bày trận theo Thất tinh bắc đẩu, tôi tưởng rằng sẽ đánh cho
bọn chúng tơi bời. Nào ngờ đối phương giữ trận rất kỹ, chỉ có một người
đối phó với tôi. Đó là một hán tử trung niên, tôi chạm với y ba chiêu,
không những chẳng chiếm được phần hơn mà còn bị thua thiệt”.

Kim Trục Lưu hỏi:

“Diệp đại ca, huynh có dùng Bát nhã chưởng không?”.

Diệp Xung Tiêu gật đầu:

“Đương nhiên có dùng, người ấy tiếp một chưởng hừ một tiếng, người chỉ lắc lư
chứ không ngã xuống. Y lại đánh tiếp hai chiêu, kiếm lẫn chưởng đều
dùng. Tôi chỉ đối phó được với kiếm của y chứ không thể nào chống nổi
chưởng chỉ của y, chỉ thấy be sườn tê rần. May mà Kim thế bá mau chóng
đẩy tôi ra, nếu không tôi đã trọng thương”.

Nói xong đưa tay vạch áo, chỉ thấy ở dưới be sườn có ba dấu tay đỏ bầm, Diệp Xung Tiêu cười khổ sở:

“Đối phương đã dùng chỉ thay kiếm, chỉ pháp rất tinh kỳ, tôi chưa từng thấy bao giờ! May mà y không dùng kiếm thật!”.

Mọi người thấy vết thương trên người Diệp Xung Tiêu đều trợn mắt há mồm.

Kim Thế Di cười:

“Xung Tiêu, ngươi cũng không cần quá khiêm nhường, ba người của bọn chúng
tiếp chưởng của ngươi thực ra cũng bị trọng thương. Nhưng ngươi không
thấy mà thôi. Cũng nhờ thế mà vợ chồng ta mới có thể phá nổi Thất tinh
trận của bọn chúng!”.

Trọng Trường Thống chợt kêu lên:

“Đáng tiếc, trận đấu này chắc chắn rất kịch liệt, nhưng tôi không có phước
chứng kiến. Kim đại hiệp, ông đã thắng như thế nào, hãy mau kể lại cho
chúng tôi nghe thử”.

Kim Thế Di lắc đầu:

“Nói ra thật hổ
thẹn, vợ chồng chúng tôi tuy may mắn phá trận nhưng không hề biết lai
lịch võ công của bọn chúng. Bảy người này sử dụng bảy loại binh khí khác nhau, mỗi người đều có chỗ độc đáo nhưng hình như bọn chúng cùng một
môn phái. Chiêu số của bọn chúng rất quái dị nhưng đều biến hóa từ kiếm
pháp mà ra. Hai tên sử dụng kiếm là võ công cao cường nhất, tôi dùng chỉ thay kiếm, thi triển Đại tu di kiếm thức mà vẫn chẳng hơn được bọn
chúng”.

Kim Thế Di không muốn khoe khoang cho nên chỉ nói đại khái. Ai nấy đều không thỏa mãn, đòi Diệp Xung Tiêu bổ sung thêm.

Diệp Xung Tiêu:

“Võ công của tôi còn kém Kim đại hiệp, đôi bên đều sử dụng võ công thượng
thừa, tôi nhìn mà hoa cả mắt, thật hổ thẹn, tôi không thể nào biết được
sự ảo diệu bên trong”.

Ông ta lại cười nói tiếp:

“Bảy
người bọn chúng, ngoại trừ hai kẻ sử dụng chưởng, năm người kia đều bị
Kim đại hiệp đoạt binh khí, chỉ có một kẻ thà bị trúng một chưởng của
ông ta chứ không buông kiếm. Cuối cùng bọn chúng đã bỏ chạy”. Nói đến
đây thì chợt hỏi Kim Thế Di:

“Kim đại hiệp, lúc đó ông có thể lấy mạng y, nhưng tại sao ông lại tha cho y?”.

Kim Thế Di nói:

“Người này có thể tiếp được bảy chiêu của tôi mới bại, coi như cũng là cao thủ trên đời sao tôi có thể còn làm khó y?” Diệp Xung Tiêu mới biết đó là
vì Kim Thế Di mến tài đối phương.

Lệ Nam Tinh lúc này mới có cơ hội đến chào Kim Thế Di, Kim Thế Di nói:

“Té ra con và Trục Lưu đã quen biết nhau”.

Nói chưa dứt lời, lại thấy có một người bước vào. Kim Trục Lưu cười nói:

“Ồ, té ra là Mâu Tông Đào”. Rồi chàng bước lên nói:

“Mâu huynh, huynh đến thật đúng lúc.

Cha tôi đã trở về”.

Mâu Tông Đào cả mừng nói:

“Tôi còn lo tin tức không chính xác, té ra lệnh tôn đã trở về. Tôi đang muốn bái kiến lệnh tôn”.

Kim Trục Lưu ngạc nhiên, định hỏi y tại sao biết được tin này, Kim Thế Di đã đứng dậy, nói:

“Không dám, tôi là Kim Thế Di. Dám hỏi các hạ cao tính đại danh, tôn sư là ai?”.

Mâu Tông Đào cung kính hành lễ rồi nói:

“Kẻ hậu bối Mâu Tông Đào ở đảo Phù Tang bái kiến Kim đại hiệp”.

Kim Thế Di lúc này mới vỡ lẽ, té ra những người mà ông ta gặp phải là nhân vật ở đảo Phù Tang, rồi mới nói:

“Tổ sư của quý phái có phải là Loạn Nhiêm Khách thời nhà Đường không?”.

Mâu Tông Đào nói:

“Đúng thế”. Kim Thế Di vừa lo vừa mừng, nói:

“Loạn Nhiêm Khách là bậc võ học tôn sư hiếm có, không ngờ võ công của ông ta lại xuất hiện ở Trung thổ, quả thật đáng mừng?”.

Mâu Tông Đào nói:

“Hàng ngàn năm trôi qua nương dâu cũng thành biển xanh, võ học của tiên tổ đã chẳng còn nguyên vẹn, e rằng vãn bối chỉ học được một phần mười mà
thôi. Kim đại hiệp khen ngợi như thế, vãn bối thật không dám nhận”.

Kim Trục Lưu nói:

“Mâu huynh đến Trung Nguyên là để tìm đồng môn”.

Mâu Tông Đào nói:

“Vãn bối có một tâm nguyện, hy vọng có thể tìm được võ học thất truyền của
bổn phái tại Trung thổ, tuy không dám mong khôi phục lại toàn bộ nhưng
chỉ cần được một ít đã đủ an ủi tiên sư”.

Kim Thế Di nói:

“Mâu huynh có tâm nguyện như thế, nhất định sẽ đạt được”.

Mâu Tông Đào nói:

“Mong làm đại hiệp giúp đỡ”.

Kim Thế Di nói:

“Vậy Mâu huynh có gặp đồng môn chưa?” Mâu Tông Đào đáp:

“Vẫn chưa?” Kim Thế Di ngạc nhiên:

“Nói như thế, lúc nãy Mâu huynh đã gặp cao thủ ở phái nào?”.

Mâu Tông Đào cả kinh, ngạc nhiên hỏi:

“Làm sao Kim đại hiệp biết?”.

Kim Thế Di nói:

“Nghe giọng nói của Mâu huynh, hình như kinh mạch thiếu dương đã bị chấn
thương, cho nên trung khí không đủ. Không biết tôi có nói sai không?”.

Mâu Tông Đào cả kinh, vẫn im lặng không nói. Kim Thế Di mỉm cười:

“May mà Mâu huynh nội công thâm hậu, tuy kinh mạch thiếu dương bị chấn
thương nhưng cũng không sao. Chỉ nghỉ vài ngày thì sẽ khỏe. Nhưng tên
cường địch ấy là ai?” Kim Thế Đi lúc đầu còn tưởng rằng y đã gặp đồng
môn, đôi bên ấn chứng võ công. Nay thấy không đúng mới ngạc nhiên, thầm
nhủ:

“Không ngờ trên đời lại có cao thủ như thế!”.

Mâu Tông Đào đáp:

“Đó là một đôi vợ chồng không rõ lai lịch, thật hổ thẹn, tôi không biết tông phái của họ”.

Té ra sau khi Mâu Tông Đào rời đảo, vì lần đầu tiên gặp cao thủ Trung
Nguyên, tỉ thí với Kim Trục Lưu, tuy hơi chiếm được thượng phong nhưng
cũng không thắng nổi cây huyền thiết bảo kiếm, lại biết nội lực của
Giang Hải Thiên cho nên càng hổ thẹn không bằng. Vì thế trong lòng rầu
rĩ, chỉ mong sớm ngày tìm ra đồng môn để thu thập bí cấp võ công của bổn phái, lúc đó mới mong ngóc đầu lên được.

Lòng đang nghĩ vẩn vơ
thì chợt nghe có tiếng chuông ngựa vang lên, có một đôi nam nữ trung
niên cưỡi ngựa đi ngược qua y. Hai người này đang nói chuyện với nhau.
Khi đi ngang qua, Mâu Tông Đào hình như nghe họ nhắc đến tên Kim Thế Di.

Mâu Tông Đào chột dạ, vội vàng chạy theo, chỉ nghe người đàn ông nói:

“Vợ chồng Kim Thế Di và Cốc Trung Liên vừa mới đi ngang qua con đường này,
xem ra chắc là từ nhà họ Giang chạy ra đến núi Tồ Lai, không biết Phù
Tang thất tử có gặp y hay không?”.

Mâu Tông Đào giật mình, thầm nhủ:

“Phù Tang thất tử mà y vừa mới nói chả lẽ là đồng môn của mình? Đi khắp nơi
không ngờ lại nghe tin đồng môn ở đây, mà lại có đến bảy người!”.

Thế là Mâu Tông Đào đuổi theo họ.

Người đàn bà nói:

“Mặc kệ bọn chúng có gặp hay không, chúng ta phải báo tin Kim Thế Di trở về cho Phù Tang thất tử”.

Người đàn ông đáp:

“Đúng thế. Ồ, có ai đi theo sau thế?” Lúc này y đã phát hiện Mâu Tông Đào đuổi theo.

Mâu Tông Đào đề khí kêu rằng:

“Xin hại vị dừng lại một lát!” Rồi phóng vọt qua chặn trước đầu ngựa.

Hai vợ chồng thấy thân thủ của Mâu Tông Đào hết sức ngạc nhiên, rồi mới xuống ngựa đồng thanh hỏi:

“Ngươi là ai? Bọn ta không quen biết người, tại sao lại chặn đường?”.

Hai vợ chồng nhà này mũi cao mắt sâu, tròng mắt hơi có màu xanh, xem ra
không phải người Hán, nhưng nói tiếng Hán rất trôi chảy. Mâu Tông Đào
ngần ngại, hỏi:

“Tôi là Mâu Tông Đào. Không biết hai vị có nghe tên tôi chưa?”.

Người đàn ông lạnh lùng:

“Ngươi có phải là nhân vật lừng lẫy không? Xin lỗi, bọn ta hiểu biết cạn hẹp, chưa nghe qua đại danh của các hạ”.

Mâu Tông Đào cười rằng:

“Tôi không có ý này, tôi chẳng qua chỉ là một tên vô danh tiểu tốt mà thôi.
Nhưng tôi từ Phù Tang đến đây, tôi nghĩ bằng hữu của hai người biết tên
tôi”.

Hai vợ chồng này nghe Mâu Tông Đào bảo từ Phù Tang đến đều thất kinh.

Người chồng nhìn kỹ Mâu Tông Đào một hồi rồi hỏi lại:

“Ngươi biết bằng hữu của ta?”.

Mâu Tông Đào nói:

“Hình như lúc nãy các hạ nhắc đến Phù Tang thất tử, không biết tôi có nghe
nhầm hay không? Nếu không nhầm, tôi muốn hỏi Phù Tang thất tử có phải là bảy người đến từ đảo Phù Tang hay không?”.

Người đàn ông lại hỏi nữa:

“Ngươi có đúng là hậu nhân của nhà họ Mâu ở Phù Tang hay không?”.

Mâu Tông Đào đáp:

“Chính thế!”.

Người đàn bà nói:

“Hình như không đúng? Nếu người nói là thực, tại sao bọn chúng không biết nhà ngươi?”.

Mâu Tông Đào thầm nhủ:

“Có lẽ là đồng môn ở chi phái khác, chỉ cần mình ấn chứng võ công với họ, họ sẽ tin mình ngay”. Vì thế liền đáp:

“Là thật hay giả, mong hai vị dắt tôi đến gặp họ sẽ biết ngay”.

Người đàn bà nửa tin nửa ngờ, nói:

“Dắt ngươi đi gặp bọn chúng thì dễ. Nhưng ta không biết lai lịch của ngươi, làm sao dễ dàng hứa với ngươi?” Rồi nhủ thầm:

“Nếu kẻ này là gian tế của đối phương, sau này có gì sai sót, Phù Tang thất
tử họ chẳng phải sẽ trách vợ chồng chúng ta hay sao?”.

Mâu Tông
Đào gặp bảy người kia mới có thể chứng thực được thân phận của mình,
nhưng hai vợ chồng nhà này lại không chịu tin chàng, thế là Mâu Tông Đào đành nói:

“Các người muốn thế nào mới tin tôi, được các người cứ hỏi đi!”.

Người đàn ông ra chiều suy nghĩ, chợt hỏi:

“Lúc nãy ngươi từ đâu tới?”.

Mâu Tông Đào nói:

“Từ núi Tồ Lai”.

“Ồ, người đã đi ngang qua núi Tồ Lai, có gặp Kim Thế Di không?”.

“Không gặp, nhưng tôi đã gặp con trai của ông ta”.

“Có phải Kim Trục Lưu không?”.

“Đúng thế. Tôi đi cùng Âu Dương Kiên, suýt nữa hiểu nhầm với y, sau đó tôi nói rõ may mà y chịu tin tôi”.

“Ngươi nói rõ cái gì?”.

“Tôi muốn nhờ cha của y hỏi thăm giùm tin tức của đồng môn”.

“Y nói thế nào?”.

“Y bảo chờ cha y đến tôi mới nhờ được. Đúng rồi, tôi muốn hỏi hai vị, có phải đã gặp Kim đại hiệp không?”.

Người đàn bà nghe Mâu Tông Đào gọi Kim Thế Đi là Kim đại hiệp thì nhướng mày, tựa như đã nổi giận nhưng người đàn ông nháy mắt ngăn lại.

Mâu Tông Đào đã thấy không ổn, đang ngạc nhiên bỗng nghe người đàn ông lạnh lùng nói:

“Nói như thế, ngươi vừa gặp Kim Trục Lưu đã thân thiết với y!”.

Mâu Tông Đào đáp:

“Đúng thế, tuy chúng tôi mới gặp nhau nhưng nói ra cũng có liên quan với
nhau, Kim Thế Di đã từng đến đảo Phù Tang tìm hiểu tình hình của tệ phái cho nên chúng tôi nói chuyện rất hợp nhau”.

Người đàn ông trả lời:

“Lúc nãy ngươi bảo mới gặp y hiểu lầm ngươi, đó là chuyện gì?”.

Mâu Tông Đào đáp:

“Tôi nghe tin triều đình làm chuyện bất lợi dối với Giang Hải Thiên, nhưng
lại không biết Âu Dương Kiên là ưng khuyển của triều đình. Lúc nãy hai
vị bảo Kim đại hiệp từ huyện Đông Bình tới, không biết có nghe tin tức
gì của nhà họ Giang không?”.

Người đàn bà chợt cười lạnh:

“Ngươi hỏi thăm cũng hơi nhiều đấy!”.

Mâu Tông Đào ngạc nhiên:

“Xin lỗi, tôi biết không nên hỏi thế. Mong hai vị dắt tôi đi gặp quý hữu, có được không?” Lúc ấy y đã cảm thấy có điều gì không ổn.

Người đàn ông thì hờ hững bảo:

“Dắt ngươi đi cũng được, nhưng ngươi phải làm cho ta tin ngươi là người Phù Tang”.

Mâu Tông Đào không nén được nữa, lớn giọng hỏi:

“Vậy thế nào mới khiến các hạ tin đây?”.

Người đàn ông nói:

“Rất dễ, ta muốn thỉnh giáo vài chiêu!”.

Mâu Tông Đào nghe thế, không biết đối phương có ý tốt hay ý xấu liền bảo:

“Được, chúng ta nên dừng lại đúng lúc, không luận thắng bại”.

Người đàn ông bảo:

“Đừng nói nhiều, lên đi!” Chưa đứt lời liền ra chiêu trước.

Mâu Tông Đào vừa nhìn biết ngay đó là một chiêu sát thủ, bất đồ lửa giận bốc lên, thầm nhủ:

“Ta coi ngươi là bằng hữu mà ngươi lại coi ta là kẻ địch”.

Mâu Tông Đào lách người, vung cây quạt xếp vạch thành một vòng tròn, tựa
như điểm tựa như chọc, đầu quạt hướng vào huyệt lao cung của đối phương.

Chiêu này phiêu hốt bất định, có thể sử dụng như phán quan bút, cũng có thể
coi là ngũ hành kiếm. Khi đánh như phán quan bút, chỉ trong vòng một
chiêu đã điểm vào bảy đại huyệt của đối phương. Khi sử dụng như ngũ hành kiếm, trong vòng một chiêu có thể đâm vào ba đại huyệt của đối phương.
Đó chính là kiếm pháp thượng thừa nhất của Phù Tang!

Người đàn
ông kêu ồ một tiếng biết quả nhiên Mâu Tông Đào là con cháu của Loạn
Nhiêm Khách, nhưng y vẫn làm ngơ tiếp tục đánh tới.

Mâu Tông Đào thất kinh, thầm nhủ:

“Chả lẽ y có thể phong bế huyệt đạo của toàn thân, không sợ thủ pháp điểm huyệt của mình”.

Vì y không biết đối phương là địch hay bạn nên cũng hơi lo. Nghĩ chưa dứt
thì chợt thấy lực đạo trong hai chưởng của đối phương phát ra như nối
với nhau, còn người y bất đồ xoay một vòng, thế là cây quạt điểm hụt,
suýt nữa đã bị người ấy giật mất.

Té ra người này luyện một loại
chưởng lực có cả cương lẫn nhu, là một loại võ công cực kỳ đặc biệt. Mà
Mâu Tông Đào vì hơi e ngại, không dám dùng đủ mười thành công lực cho
nên vừa chạm mặt đã đuối thế.

Người này cười lạnh:

“Võ công của đảo Phù Tang chỉ có thế thôi sao?” Rồi y được nước lấn tới, tiếp tục tung ra hai chưởng.

Mâu Tông Đào tức giận đến nỗi thất khiếu bốc khói, thầm nhủ:

“Ta và ngươi chỉ ấn chứng võ công, ngươi lại muốn lấy mạng ta!” Vì thế cũng cười lạnh:

“Ngươi mới biết võ công của đảo Phù Tang cũng khó!” Rồi rùng người xuống, liên tục trả lại ba chiêu.

Lần này chưởng lực của người ấy không thể xoay Mâu Tông Đào nữa, y cố gắng
hóa giải ba chiêu rồi chỉ nghe soạt một tiếng, tà áo đã bị Mâu Tông Đào
xé rách, nhưng Mâu Tông Đào cũng cảm thấy khí huyết nhộn nhạo.

Mâu Tông Đào vung một chưởng đánh lui đối phương, lạnh lùng nói:

“Võ công của đảo Phù Tang thế nào?” Người ấy cũng lạnh lùng:

“Chẳng thế nào cả!” Rồi lại tiến lên, hai chưởng vung ra một chiêu, Mâu Tông
Đào chỉ biết chưởng trái của y là lực dương cương, chưởng phải là lực âm nhu, vì thế vẫn đối phó như cách lúc nãy, không ngờ đột nhiên cảm thấy
chưởng lực của đối phương tăng lên lạ lùng, té ra hai chưởng của người
ấy tuy là một cường một nhu nhưng có thể thay đổi cho nhau, lúc thì hai
chưởng đều cương, lúc thì hai chưởng đều nhu. Mâu Tông Đào suýt nữa đã
bị trúng đòn, may mà hóa giải nhanh, sau khi liên tục thối lui ba bước
đã chặn lại được một nửa lực đạo của đối phương, nhưng huyết khí trong
ngực nhộn nhạo, tựa như bị giáng một nhát búa vào.

Người đàn bà khen “hay” một tiếng rồi nói:

“Nếu ngươi có bản lĩnh như thế hãy thử công phu của ta!”.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.