Lưng
tôi va phải vật gì rất góc cạnh, vòng tay ra phía sau, chưa chạm đến lưng đã
đụng phải một thứ kỳ lạ. Cùng lúc đó, một mùi hôi thối nồng nặc xông lên não,
kích thích tôi choàng tỉnh.
Phía
trước, một đôi mắt mở to đang nhìn tôi chằm chằm, vệt máu khô đét dính trên
đỉnh đầu, khuôn mặt hung tợn, dữ dằn. Tôi kinh hoàng bật dậy, nhưng mặt đất gập
ghềnh dưới chân khiến tôi chao đảo. Tôi chống tay, những tiếng răng rắc vang
lên, đưa mắt nhìn xuống, tôi vừa ngồi lên và làm gẫy cẳng chân của một người
nào đó, bàn tay dính đầy vệt máu đỏ sẫm, nhớp nháp. Trời đất ơi, tôi đang ở nơi
nào thế này? Đưa mắt ra xung quanh, cơn buồn nôn lập tức ập đến.
Tôi
đang ở trong một cái hố chôn cực lớn, đường kính chừng hơn chục mét và chỉ mình
tôi là người sống. Tầng tầng lớp lớp thi thể chất cao thành đống, mùi hôi thối
không ngừng xông lên, tôi nôn ra cả mật xanh mật vàng. Tay bịt mũi, tôi kinh sợ
đưa mắt quan sát khung cảnh trước mắt. Nhìn y phục trên người và khuôn mặt của
những tử thi mất tay mất chân, hay thậm chí mất đầu ấy, tôi đoán họ là binh
lính Khâu Từ và rất nhiều tộc người du mục vùng Trung Á khác. Nếu thời gian và
địa điểm cài đặt trên cỗ máy thời gian là chính xác, thì cảnh tượng trước mắt
có lẽ là kết quả của cuộc đại chiến giữa Bạch Thuần và Lữ Quang.
Không
phải tôi chưa từng thấy thi thể. Những xác ướp trong viện bảo tàng ở Ai Cập,
những bộ xương người trong viện bảo tàng ở Tân Cương, tôi cũng từng theo đoàn
khảo cổ đi khảo sát những lăng mộ dưới lòng đất. Chưa kể đến những thi thể
không đầu trong các động đá thuộc vương quốc Guge (Tây Tạng) cổ đại, vì ở trên
cao nguyên, không khí loãng, trải hơn sáu trăm năm lịch sử, các thi thể vẫn
chưa phân hủy hoàn toàn, đến tận bây giờ vẫn nồng nặc mùi xú uế. Vụ thảm sát ở
Nam Kinh với hố chôn hàng vạn người, đài tưởng niệm được xây dựng dưới lòng
đất, mỗi khi bước chân vào đó, những bộ xương trắng bao quanh bạn, cảnh tượng
thảm thương đến mức khiến bạn phải nhắm mắt lại, không dám nhìn. Tôi không phải
kẻ nhát gan, vì nếu thế tôi đã không theo học ngành lịch sử. Nhưng chưa bao giờ
tôi khiếp sợ như thế này. Tận mắt chứng kiến sự chết chóc và hệ hô hấp không
ngừng thu nạp thứ mùi hôi thối đặc trưng của thi thể vừa bắt đầu phân hủy ấy và
tôi lại đang ở nơi mà một khoảng trống không xác người để đặt chân lên cũng
không có. Tôi ngẩng đầu, vậy là mặt đất đang ở cách tôi một khoảng vượt quá
chiều cao của tôi.
Trong
ba lô của tôi có dây móc và một vài vật dụng trèo tường chuyên dụng. Trước đó,
nhóm nghiên cứu đã mời giáo viên thể dục và lính đặc công đến huấn luyện cho
tôi một số thao tác cơ bản để có thể giúp tôi sống sót trong thời đại mà tính
mạng con người bị coi như cỏ rác này. Tôi đã mặc quần áo rằn ri để luyện tập
vượt qua tường cao, nhảy qua hố sâu, học cách vật lộn và những kỹ thuật phòng
thân của con gái. Tuy thời gian tập luyện rất ngắn ngủi, trình độ chỉ ở bậc
amateur, nhưng ít nhiều cũng có chút kỹ thuật. Nhưng, vấn đề ở chỗ, tay chân
mình mẩy tôi lúc này đang run lên cầm cập, thậm chí không đủ sức để lấy công cụ
trong ba lô ra nữa. Trừ phi tôi phải nhắm chặt mắt lại để không phải nhìn thấy
những cánh tay, bắp chân đứt rời và nhầy nhụa máu, bịt chặt mũi để không ngửi
thấy thứ mùi khủng khiếp nhất trên cõi đời ấy. Mà như thế, cả não bộ của tôi
cũng trở nên tê liệt, tôi không kéo nổi khóa ba lô, nỗi sợ hãi bật lên thành
tiếng khóc.
Lại
một thi thể bị ném xuống, thiếu chút nữa đã đè nát người tôi. Bên trên có
người! Tôi như kẻ chết đuối vớ được cọc, không kịp suy nghĩ, tôi vội gào lên
kêu cứu. Mấy cái đầu người nhô ra trên mặt đất, vẻ mặt hoảng sợ. Có lẽ họ nghĩ
tôi là xác chết sống dậy. Tôi vội vàng giải thích tôi là người sống, do bất cẩn
nên mới sa chân xuống hố. Gào thét một thôi một hồi mới thấy một sợi dây thừng
được thả xuống.
Lên đến
mặt đất mà tôi vẫn trong trạng thái hồn bay phách lạc, sau đó thì nhận ra rằng
tình trạng sau khi được cứu thoát cũng không mấy sáng sủa. Những người kéo tôi
lên có vẻ như là binh lính của Lữ Quang và vì phụ trách công việc dọn dẹp chiến
trường, chôn lấp xác chết nên họ đều là những lính tráng hoặc già nua yếu đuối,
hoặc bệnh tật đầy mình. Bị vây bọc giữa đám lính chẳng có vẻ gì là thân thiện,
tử tế này khiến tôi không khỏi than thở cho tình cảnh “tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa”
của mình.
Chưa
hoàn hồn với nỗi kinh hoàng vừa trải qua, tôi đã phải nhanh chóng nghĩ cách đối
phó với tình cảnh trước mắt. Trong chiến tranh, phụ nữ bị xem là chiến lợi
phẩm. Những thương binh tàn phế này làm gì có cơ hội xung phong lên tuyến đầu
để có thể được ban thưởng phụ nữ hay vàng bạc, châu báu kia chứ. Vậy nên họ
chắc chắn sẽ xem tôi như một món quà từ trên trời rơi xuống. Tuy có mang theo
súng gây mê, nhưng ở khoảng cách gần như vậy, lại đông người thế này, tôi không
biết mình có thể bắn hạ bao nhiêu tên.
Trước
mặt tôi đều là những khuôn mặt người Hán, tôi gắng gượng cười thật tươi, chắp
tay cung kính, thưa chuyện với họ bằng tiếng Hán:
– Thưa
các anh, tôi vốn là thê thiếp mới của ngài Đoàn Nghiệp, bộ hạ của tướng quân Đỗ
Tấn. Hôm nay ra ngoại thành hái thuốc, chẳng mai trượt chân rơi xuống hố sâu,
gây cản trở công việc của các anh, tôi xin có lời tạ lỗi.
Trong
số các bộ hạ người Hán theo Lữ Quang Tây chính, tôi chỉ biết Đỗ Tấn và Đoàn
Nghiệp. Đỗ Tấn là tướng tá đắc lực của Lữ Quang, mà công lao to lớn nhất của Đỗ
Tấn là giúp Lữ Quang bình định Hà Tây[23].
Sau đó, Đỗ Tấn đã được phong chức tướng quân hộ quốc, rồi Thái thú võ uy. Nhưng
vì quyền cao chức trọng, ra vào oai vệ chẳng khác nào Lữ Quang, nên Lữ Quang
sinh lòng đố kỵ đã viện cớ trừ khử Đỗ Tấn.
Còn
Đoàn Nghiệp, chính là người lập ra nhà Bắc Lương thời Thập lục quốc, nhưng lại
chỉ là một thư lại nhỏ bé dưới trướng Đỗ Tấn khi Lữ Quang đem quân chinh phạt
Khâu Từ, về sau, Đoàn Nghiệp được thăng chức Thái thú Kiện Khang (nay là Tửu
Tuyền, Cam Túc). Năm 397, Thư Cừ Nam Thành, người Hung Nô lật đổ nhà Hậu Lương
của Lữ Quang, đưa Đoàn Nghiệp lên ngôi vua Lương nhằm mua chuộc lòng người. Thế
là từ một bậc “nho nhã, không chút quyền hành trong tay”, Đoàn Nghiệp bỗng
nhiên trở thành quốc vương của Bắc Lương thời Thập lục quốc.
Quân
đội của Lữ Quang tập hợp đủ mọi tộc người. Lữ Quang cùng thuộc tộc người Đê với
Phù Kiên. Còn tôi mang diện mạo của một người Hán, bởi vậy, phải tìm một người
Hán để có thể qua mặt đám quân lính trước mắt. Tôi chọn Đoàn Nghiệp mà không
chọn Đỗ Tấn vì chức vụ của ông ta quá cao, nếu tôi nói mình là thê thiếp của
ông ta, chắc chắn sẽ có người sinh nghi. Còn Đoàn Nghiệp, lúc này mới hai mươi
tuổi, chỉ là một văn thư quèn dưới trướng Đỗ Tấn, những người biết rõ về thê
thiếp của người này chắc không nhiều. Hành quân ra trận vốn dĩ không được đưa
người thân đi cùng, nhưng vì Lữ Quang muốn chiếm đóng Khâu Từ lâu dài, nên đã
cho phép tướng lĩnh của mình nạp thiếp.
Những
người đó quả nhiên lộ vẻ bực tức, vì họ chẳng dám đắc tội với cấp trên. Tôi thở
phào, định xoay người bước đi thì một người trong số họ cứ nằng nặc đòi đưa tôi
đến gặp Đoàn Nghiệp, chắc là muốn nịnh bợ đây mà! Từ chối không được, vả lại
nghĩ rằng một thân một mình cũng khó vào thành, tôi liền ưng thuận đi theo anh
ta.
Đường
vào thành trải ra trước mắt tôi những vết tích tang thương mà chiến tranh gây
nên. Xác người, xác ngựa la liệt trên đường, mùi xú uế nồng nặc khắp nơi. Xe
ngựa, gạch đá dùng để công phá thành nằm ngổn ngang trên lối đi. Gươm đao giáo
mác cong mẻ gập gẫy chất đầy đường. Những bức tường thành Khâu Thành loang lổ,
vỡ nát, tan hoang.
Không
được chứng kiến tận mắt trận chiến này, nên tôi chỉ có thể nhớ lại những ghi
chép trong sách sử.
Quân
của Lữ Quang có bảy mươi ngàn bộ binh, năm ngàn kỵ binh, cộng thêm binh lực của
Shanshan và Chrish đi tiên phong, tổng cộng khoảng một trăm ngàn quân. Còn Bạch
Thuần, dốc sạch quốc khố cầu viện Khoái Hồ, Khoái Hồ phái hơn hai mươi vạn quân
đến chi viện. Cộng thêm binh lực của Wensu, Weitou, tổng cộng hơn bảy trăm ngàn
quân.
Cuộc
chiến với binh lực quá ư chênh lệch ấy lại mang về chiến thắng vang dội cho Lữ
Quang, ông ta quả không hổ danh là tướng tá đắc lực của Phù Kiên. Sách “Tấn
thư” chép rằng, khi ấy, các tướng sĩ đều cho rằng: địch đông ta ít, cần dựng trại,
dàn trận, tính kế lâu dài. Nhưng Lữ Quang không nghe, nói rằng: địch đông ta
ít, càng dàn trận càng phân tán lực lượng, không phải kế hay.
Lữ
Quang lệnh cho binh lính dựng trại phía nam thành Khâu Từ, cứ năm dặm một trại,
đào hào sâu, đắp lũy cao, dùng kế nghi binh, đội mũ sắt, mặc áo giáp, cắm cờ
lên bù nhìn bằng gỗ giả người thật, nhằm đánh lạc hướng quân Khâu Từ trong nội
thành. Sau đó, dẫn đại quân đón đánh liên quân Khoái Hồ ở phía tây. Kỵ binh
Khoái Hồ nhất loạt mang áo giáp sắt, giáp trụ cứng như thép, mũi tên không thể
xuyên thủng. Thêm vào đó, quân yểm trợ lại là đội khinh kỵ tinh nhuệ, sử dụng
roi da làm vũ khí, thúc ngựa vung roi quật ngã đối phương, trăm phát trăm
trúng. Bởi vậy, giai đoạn đầu cuộc chiến, Lữ Quang rơi vào thế yếu.
Lữ Quang
nhận thấy quân Khoái Hồ chỉ có đội kỵ binh là tinh nhuệ, đội quân còn lại tuy
đông đảo nhưng chỉ là đám dân du mục bị bắt đi lính nên Lữ Quang nghĩ ra cách
đối phó với kẻ địch là chặt chân ngựa chiến. Đám kỵ binh khi bị ngã trở nên bất
lực, vì bộ giáp sắt mặc trên người quá nặng khiến họ không thể di chuyển, càng
không thể chống trả. Quân của Lữ Quang chặt đầu hơn mười ngàn lính Khoái Hồ,
tin tức bay về khiến Bạch Thuần run sợ. Đức vua Khâu Từ vội vàng vơ vét của
cải, bỏ thành mà chạy. Hơn ba mươi nước chư hầu trong vùng nghe nói Khâu Từ bại
trận, đã ùn ùn kéo đến xin hàng.
Bạch
Thuần thua trận khi đã gần sáu mươi tuổi, ông ta trốn chạy đến đâu, sử sách
không ghi chép. Lữ Quang chiếm thành, đưa người em út của Bạch Thuần là Bạch
Chấn lên ngôi vua.
Khâu Từ
là quốc gia mạnh nhất ở Tây vực, điều đó khiến các nước chư hầu khác không hài
lòng. Bởi vậy khi được lệnh đến Trường An cống nạp, vua nước Shanshan, vua nước
Chrish và Bạch Chấn đã gặp riêng Phù Kiên, thỉnh cầu vua Hán chinh phục Tây vực
và xin làm “hoa tiêu dẫn đường”. Quân của Lữ Quang có thể thuận lợi vượt qua ba
trăm dặm cồn cát và những sa mạc mênh mông nối tiếp nhau ở Tây vực, phần lớn
nhờ vào công lao của các “hoa tiêu” này trong đó cũng có sự đóng góp của Bạch
Chấn, vì từ lâu “cậu út” đã có dã tâm đoạt ngôi.
Vừa đi
vừa nhớ lại những ghi chép trong các tài liệu lịch sử, chẳng mấy chốc đã đến
cổng thành. Thành Khâu Từ phồn hoa thịnh vượng năm nào giờ đây hoàn toàn vắng
lặng, đìu hiu. Lác đác vài bóng người trên phố, nhà nào nhà nấy cửa đóng then
cài. Quân lính của Lữ Quang mặt đỏ gay gắt, chân nam đá chân chiêu, ngật ngưỡng
trên phố vắng, thấy nhà nào cửa hẹp tường cao là xông vào, theo sau đó là những
tiếng gào khóc thảm thiết vang lên.
Sau khi
vào thành và nhìn thấy cung điện nguy nga, tráng lệ của Bạch Thuần, Lữ Quang đã
hạ lệnh cho Đoàn Nghiệp viết một bài phú “Cung điện Khâu Từ” với nội dung châm
biếm, đả kích. Người dân Khâu Từ có cuộc sống no đủ và họ rất biết cách hưởng
thụ, trong nhà mỗi gia đình đều ủ rất nhiều rượu nho. Mỗi gia đình thậm chí cất
giữ hàng nghìn thùng rượu, sau mười năm, hương rượu nồng nàn thấm đẫm trong
khuôn viên phủ đệ. Lữ Quang vì muốn khoản đãi tướng sĩ sau chiến thắng, đã dung
túng cho đám lính của mình thỏa sức cướp bóc, số quân lính ngập chìm, thậm chí
bỏ mạng trong men rượu nhiều không đếm xuể.
– Đoàn
đại nhân!
Suy
nghĩ bị cắt ngang, tên lính người Hán đi cùng tôi hướng về một người dáng vẻ
thư sinh, khép tay hành lễ. Họ Đoàn, có phải là Đoàn Nghiệp?
Nếu
không tìm cách trốn thoát tất sẽ bị lộ. Nhưng ngõ phố gần nhất cũng cách tôi
đến hai mươi mét. Nếu cố tình bỏ đi, e rằng chưa được mấy bước đã bị bắt lại.
Vừa căng thẳng nghĩ cách thoát thân, nhưng lòng hiếu kỳ lại dâng cao mãnh liệt,
tôi muốn được tận mắt nhìn thấy dung mạo của hoàng đế Bắc Lương. Theo học
chuyên ngành này thật nguy hiểm, lòng hiếu kỳ có thể khiến người ta phải đền
mạng như chơi.
Đoàn
Nghiệp chừng hai mươi tuổi, cao khoảng một mét bảy mươi lăm, khuôn mặt vuông
vức, dáng vẻ nho nhã, trên tay cầm giấy bút, đang trò chuyện với một quân nhân,
nhìn thấy tên lính người Hán, liền quay lại đáp lễ.
– Đoàn
đại nhân, ngài đây rồi, tôi đang tìm ngài. Phu nhân một mình ra ngoại thành hái
thuốc rất nguy hiểm, cô dâu mới mà sao ngài không biết thương hoa tiếc ngọc?
Đoàn
Nghiệp tất nhiên rất kinh ngạc, liếc nhìn tôi, định mở miệng phủ nhận, tôi giả
bộ vui mừng khi nhìn thấy người thân, vội lao đến trước mặt hắn, hạ giọng:
– Tôi
được cao nhân chỉ điểm, thông tỏ thiên cơ, nếu đại nhân chịu ra tay cứu giúp,
tôi nhất định sẽ báo đáp ơn này.
Sử sách
chép rằng, Đoàn Nghiệp vốn là kẻ khù khờ, chỉ tin vào bói toán tà thuật. Cầu
mong sao chiêu bài này của tôi sẽ đánh trúng tâm ý hắn.
Hắn
nhìn tôi đầy nghi hoặc, có vẻ như không tin tôi có khả năng đó cho lắm. Cũng
phải thôi, tôi còn quá trẻ, khắp người bốc mùi hôi hám, chẳng có chút khí chất
thần thánh nào cả. Tôi bỗng chột dạ, vội hỏi khẽ:
– Đêm
trước khi công phá thành Khâu Từ, Lữ tướng quân từng mơ thấy voi vàng bay ra
vùng ngoại thành, đúng không?
Đó là
những ghi chép trong sách “Tấn thư”, giấc mơ đó đã khiến Lữ Quang càng có thêm
tự tin rằng “thánh thần đã rời bỏ thành Khâu Từ, người Hồ tất sẽ diệt vong”.
Sách “Tấn thư” ghi chép rất nhiều những điều kỳ quái, thần thánh mang màu sắc
mê tín nên rất nhiều nhà sử học về sau này không xem đó là chính sử. Còn tôi
thì đang đặt cược, tôi cược rằng, trước tình thế địch mạnh ta yếu, Lữ Quang
đúng là đã bịa đặt ra giấc mơ kì lạ đó để động viên binh sĩ. Nếu tôi thua, tôi
cũng chẳng còn đường thoát nào khác.
Đoàn
Nghiệp kinh ngạc ngẩng lên, trầm ngâm một lát, lại nhìn tôi, không khẳng định
cũng không phủ nhận. Cảm ơn tên lính người Hán, tạm biệt người vận đồ quân nhân
vừa trò chuyện với mình, anh ta đưa tôi rời khỏi đó trong tiếng cười giễu của
bọn họ.
Bước đi
cùng Đoàn Nghiệp mà trong lòng không khỏi thấp thỏm lo âu. Tuy nhiên, theo tài
liệu lịch sử thì Đoàn Nghiệp không phải là kẻ nóng nảy, hiểm ác như Lữ Quang.
Nếu không ổn, một mình hắn tôi cũng có thể đối phó được. Đoàn Nghiệp đưa tôi
đến nhà một thường dân, bên trong có rất rất nhiều người vóc dáng văn nhân, họ
cất tiếng chào anh ta. Có lẽ quân Lữ Quang đã cưỡng chế trưng dụng căn nhà này
làm nơi tụ họp của các quan văn.
Khi chỉ
còn hai chúng tôi ở trong phòng, tôi chắp tay trước mặt Đoàn Nghiệp:
– Tôi
vì muốn giữ mạng, đã mạo muội nhận mình là người nhà của Đoàn đại nhân, xin đại
nhân thứ tội.
– Cô
nương xin đừng khách sáo, ta hiểu nỗi khó xử của cô.
Anh ta
rất nhã nhặn, lịch thiệp, khiến tôi có thêm vài phần thiện cảm.
– Vị
cao nhân mà tôi nhắc đến, chính là đại pháp sư nổi tiếng khắp vùng Tây vực,
Kumarajiva. Tôi tuy kiến thức nông cạn, nhưng may mắn được gặp pháp sư, nên đã
học hỏi được rất nhiều điều bổ ích. Lần này đến Khâu Từ cũng vì mong được diện
kiến pháp sư. Nếu được ngài truyền thụ cho chút ít kiến thức, chắc chắn năng
lực tiên đoán của tôi sẽ được nâng lên đáng kể.
Không
biết Rajiva hiện nay ra sao, tôi chỉ có thể dò la thông tin về cậu ấy bằng chủ
đề ưa thích của Đoàn Nghiệp.
– Danh
tiếng của đại pháp sư Kumarajiva như sấm dội bên tai, được biết pháp sư có biệt
tài xem tướng số, lại thông thạo âm dương ngũ hành, tôi đây vốn đã ngưỡng mộ từ
lâu.
– Đoàn
đại nhân chưa gặp pháp sư bao giờ ư? Nghe nói pháp sư hiện đang ở chỗ của Lữ
tướng quân, lẽ ra đại nhân phải được gặp pháp sư thường xuyên mới đúng chứ?
Tôi nín
lặng chờ đợi phản ứng của Đoàn Nghiệp.
Vẻ mặt
anh ta vương chút ảo nảo:
– Tôi
rất muốn, nhưng pháp sư đang bị giam lỏng, tôi chẳng thể gặp ngài.
– Tôi
và pháp sư vốn có duyên, nếu đại nhân có thể giúp tôi gặp được ngài, tôi nhất
định sẽ xin pháp sư xem hậu vận cho đại nhân.
– Điều
này e là không thể.
Anh ta
có vẻ rất sốt sắng, nhưng lại hơi do dự.
– Nghe
nói, tướng quân giam đại sư trong cung, với chức quan quèn như hiện nay, tôi
không thể gặp ngài.
Trong
lòng ngập đầy nỗi thất vọng. Tôi chỉ biết cậu ấy bị giam trong cung, nhưng
không rõ đã bị Lữ Quang ép phá giới hay chưa. Đoàn Nghiệp chỉ là một thư lại
nhỏ bé, lại không phải thân tín thuộc tộc người Đê của Lữ Quang, nên chắc rằng
anh ta cũng không biết được thông tin gì.
Tôi
đành hỏi Đoàn Nghiệp những câu hỏi khác, được biết, thành Khâu Từ đã bị công
phá năm ngày rồi, ngày thứ ba, Bạch Chấn đăng cơ làm vua Khâu Từ.
Suy
nghĩ một lát, tôi cầu xin Đoàn Nghiệp giúp đỡ:
– Không
biết Đoàn đại nhân có thể cử người đưa tôi đi tìm Pusyseda – em trai pháp sư
Kumarajiva không?
Một
mình trên phố lúc này chẳng khác nào sa vào hang hùm, khẩu súng gây mê nhỏ bé
của tôi chắc chắn không thể hạ gục đám lính đang điên cuồng cướp bóc ngoài kia.
Sợ Đoàn
Nghiệp từ chối, tôi vội vàng hạ thấp giọng một cách bí hiểm, nói với anh ta:
– Theo
quan sát của tôi, tướng mạo của Đoàn đại nhân cho thấy ngài không phải hạng tôm
cá trong ao tù, ánh hào quang tỏa ra từ ngài chứng tỏ rằng, ngày sau, ngài sẽ
làm nên nghiệp lớn.
– Có
thật không?
Anh ta
đúng là một kẻ mê tín, vẻ mặt trở nên bí hiểm, rồi hạ thấp giọng, dò hỏi:
– Sẽ là
ở đâu và khi nào? Xin cô nương cho biết.
Tôi ra
điều kiện:
– Đại
nhân chịu đưa tôi đi, tôi sẽ không ngại tiết lộ.
Môn
thần học vốn rất thịnh hành vào thời Nam Bắc triều, gắn với Nho học, Huyền học
trong một thể thống nhất không thể tách rời. Thực ra đó chỉ là những dự đoán
mang màu sắc kỳ lạ, bí hiểm mà thôi. Vương Mãnh muốn Phù Kiên giết tướng Sabir,
nên đã cho người tung tin đồn “tháng Ất Dậu năm Giáp Thân, Ngư Dương ăn thịt
người”[24]. Phù Kiên không nghe, vẫn hậu đãi
Mộ Dung Thùy, nhưng chính sách đoàn kết các dân tộc hết sức tiến bộ của ngài đã
không có hiệu quả. Và lời cảnh báo của Vương Mãnh lại hết sức chính xác. Năm
384, tức là năm Giáp Thân, nhà Tiền Tần bắt đầu tan rã. Tuy Phù Kiên bị Diêu
Trường thuộc tộc người Khương giết chết, nhưng nguyên nhân chính của sự sụp đổ
của nhà Tiền Tần là do cuộc khởi nghĩa phục quốc của người Sabir.
Bởi
vậy, việc Đoàn Nghiệp đồng ý đưa tôi đi tìm Pusyseda thể hiện sức mạnh to lớn
của bói toán.