Những
buổi tối sau đó, Rajiva không đến. Tôi cứ ngỡ mình có thể mình tâm nhưng mỗi
ngày, cứ đến năm giờ chiều, tôi lại ngồi yên trong phòng, dõi mắt ra phía cửa,
cho tới khi ánh đèn tắt lịm, cả thành cổ chìm trong đêm tối tịch mịch. Hàng
ngày, cầm cuốn tập trên tay lang thang trong thành Subash, đi mãi đi mãi, rồi
không hiểu vì sao bước chân lại đưa đẩy đến cổng chùa Cakra, tôi cứ quanh quẩn
ở nơi đó hồi lâu, cho tới khi chú tiểu gác cổng cất lời hỏi han, tôi mới như
người vừa tỉnh cơn mê, vội vàng cúi đầu, chạy biến. Lòng buồn vô hạn, như thể
có bàn tay ai đó đang nắm chặt lấy trái tim tôi và vò nát, khiến tôi như kẻ mất
hồn, tay cầm cuốn tập để bắt đầu công việc, những nét vẽ lại hiện dần hình ảnh
của cậu ấy, hết bức chân dung này đến bức chân dung khác, nhưng vẽ xong tôi lại
ra sức xóa đi.
Chỉ còn
hai ngày là đến lễ hội Sumuzhe, vẫn không thấy bóng dáng Rajiva đâu. Khi lễ hội
kết thúc tôi sẽ rời khỏi Khâu Từ. trước lúc ra đi, liệu tôi có còn được gặp cậu
ấy lần cuối hay không? Mặc dù vẫn biết rằng, không gặp sẽ là cách tốt nhất để
khi ra đi, tôi có thể quên tất cả…
Buổi
tối, tôi nằm co trên giường, đôi mắt tiếp tục cần mẫn “canh chừng” cánh cửa,
suy nghĩ vẩn vơ. Tủ sách quý từng khiến tôi mê mẩn đang
bày ta trước mắt, nhưng không thể khơi dậy dù chỉ là một chút cảm hứng trong
tôi, vì nhiều ngày qua, cảm hứng ấy nằm bẹp trong góc xa xôi nào đó rồi. Mười
giờ đêm, nếu là ở thế kỷ XXI thì bây giờ mới là thời khắc bắt đầu cuộc sống về
đêm. Nhưng vào thời đại này, mười giờ đã là đêm khuya thanh vắng. Tôi thở dài,
vậy là lại một đêm nữa trôi nữa qua.
Bỗng
tôi nghe có tiếng gõ cửa, không ồn ào, nhưng rất rõ ràng. Rồi tiếng trò chuyện
của Mavasu với ai đó vang lên trong sân. Họ nói chuyện bằng tiếng Phạn! Là cậu
ấy!
Tim đập
liên hồi, tôi vùng dậy, nhảy xuống giường và lao ra khỏi phòng. Rajiva đang
đứng trò chuyện với Mavasu giữa sân, trong bóng tối tôi không thấy rõ biểu cảm
trên khuôn mặt cậu ấy. Nỗi băn khoăn ngày càng dâng cao, nếu không có việc gì
hệ trọng, cậu ấy không đến vào giờ này. Có lẽ đã xảy ra chuyện gì đó.
Mavasu
buồn rầu, lẳng lặng về phòng. Rajiva chậm rãi bước lại gần tôi, có cảm giác mỗi
bước đi của cậu ấy là một nỗ lực vô cùng lớn lao.
– Khuya
thế này, lẽ ra Rajiva không nên đến….
Giọng
nói trở nên run rẩy.
–
Nhưng, muộn phiền chất chứa trong lòng. Rajiva ra ngoài đi dạo, không hiểu vì
sao bước chân lại đưa đẩy đến nơi này. Rajiva đứng ngoài cổng lưỡng lự hồi lâu,
mới quyết tâm gõ cửa.
Cậu ấy
ngẩng lên nhìn tôi, ánh sáng yếu ớt hắt ra từ ngọn đèn nhỏ trong phòng chiếu
lên khuôn mặt đau thương cùng cực. Rốt cuộc là chuyện gì đã khiến một người
luôn điềm tĩnh, an nhiên như Rajiva trở nên tội nghiệp thế?
Cậu ấy
đứng đó, dáng vẻ buồn khổ và bất lực, tôi khẽ cất tiếng:
–
Rajiva, chúng ta ra ngoài đi dạo một lát nhé!
Rajiva
nhìn tôi bừng vẻ ngạc nhiên, xem lẫn cảm động và hàm ơn, cậu cúi đầu thì thào:
– Cô
mặc thêm áo vào, bên ngoài trời lạnh…
Thành
cổ Subash chìm trong yên tĩnh, đường phố đã tắt đèn từ lâu, nhưng ánh trăng
vằng vặc vẫn soi tỏ đường đi dưới chân. Chúng tôi lặng lẽ đi bên nhau. Đây là
lần đầu tiên tôi ra ngoài cùng cậu ấy vào giờ khuya thế này. Rajiva hẳn cũng có
chút e ngại và thận trọng.
Subash
là thành phố nhỏ có ý nghĩa tôn giáo nhiều hơn quân sự, bởi vậy thành phố này
không có tường thành bao quanh giống như những thành trì kiên cố khác. Chúng
tôi đi vài bước đã ra khỏi thành để đến bên dòng sông Tongchang. Lúc này đang
là mùa hạ, nước sông chảy xiết, tiếng nước róc rách càng tôn thêm vẻ tĩnh mịch
của đêm vắng.
Chúng
tôi tìm thấy một phiến đá lớn ven sông, tôi ngồi cuộn tròn, lặng nhìn cậu ấy.
– Sư
phụ từng truyền dạy Phật giáo Tiểu Thừa ở Kabul của tôi vừa tới đây.
– Đại
sư Bandhudatta ư?
Truyện
kể về Rajiva viết rằng, cậu ấy đã bỏ rất nhiều công sức để thuyết giảng giáo lý
Phật giáo Tiểu Thừa cho vị sư phụ truyền dạy Phật giáo Tiểu Thừa cho mình là
Bandhudatta nghe.
– Vì
sao cô biết tên của sư phụ?
– Tôi…
Tôi
giật mình. Tất nhiên là tôi đọc tài liệu nên mới biết được.
– Đúng
rồi, tôi từng nói với cô. Không ngờ, mười năm rồi cô vẫn còn nhớ.
Rajiva
từng kể cho tôi nghe ư? Sao tôi không nhớ gì cả?
Tôi
ngượng ngùng chuyển chủ đề:
– Cậu
đã luận đàm với đại sư về Phật giáo Đại Thừa?
Rajiva
gật đầu
– Mấy
ngày qua, Rajiva đã cùng thầy luận đàm rất nhiều về những giáo lý của Phật giáo
Đại Thừa, phân tích những điểm tiến bộ, những tinh hoa của giáo phái này và đã
được thầy công nhận. Tuy thầy ngỏ ý muốn nhận Rajiva làm sư phụ Đại Thừa của
mình, đã công nhận học thuyết mới của Rajiva, nhưng dù thế nào thầy vẫn là sư
phụ truyền dạy Phật giáo Tiểu Thừa của tôi.
Tôi gật
đầu đồng tình. Trong thế giới Phật giáo, khi một người sáng lập ra một luận
thuyết và tông giáo mới và muốn được thừa nhận, thì điều quan trọng nhất là
luận thuyết ấy phải thuyết phục được người có công dẫn dắt người đó bước vào
cánh cửa của thế giới Phật giáo và được vị đại sư đó công nhận. Kết quả này
chứng tỏ, Rajiva đã chiến thắng trong cuộc luận chiến (hẳn là rất cam go) với
chính sư phụ mình. Tuy rằng sau buổi luận chiến, Bandhuatta nói sẽ tôn Rajiva
làm thầy, nhưng đại sư không hề có ý định thay đổi học thuyết của bản thân, hay
nói cách khác, Banduatta không chịu từ bỏ thân phận là “sư phụ Tiểu
Thừa” của Rajiva. Lẽ nào đây là nguyên nhân khiến Rajiva buồn phiền như
vậy?
–
Rajiva, ai cũng có lập trường riêng. Cậu sẽ thuyết phục được đại sư chấp nhận
luận thuyết của mình, thậm chí còn ngỏ ý muốn tôn cậu làm sư phụ Đại Thừa. điều
đó đã là rất nhanh công rồi. Lẽ nào cậu vẫn muốn đại sư từ bỏ Phật giáo Tiểu
Thừa?
Rajiva
nhìn tôi kinh ngạc.
–
Rajiva nào dám ngông cuồng như thế!
– Vậy
vì sao cậu lại buồn phiền?
Rajiva
đột nhiên im lặng, ánh mắt đăm chiêu nhìn về phía dòng nước, thẫn thờ hồi lâu.
– Mẹ
tôi…
Rajiva
cắn chặt vành môi run run, như muốn khiến cho nó phải rỉ máu.
– Hôm
nay sư phụ đến và báo cho tôi biết, ba tháng trước, ở Thiên Trúc (Ấn Độ), mẹ
tôi đã… đăng tam quả.
Tôi
không hiểu
– Đăng
tam quả nghĩa là gì? Tồi tệ lắm sao?
Rajiva
thở dài, rồi hít một hơi thật sâu, chậm rãi nói:
– Tam
quả, còn gọi là Anagamin, là cấp tu dưỡng thứ ba trong số bốn độ tu dưỡng mà
những người xuất gia muốn đạt đến.
Nhìn vẻ
mặt ngơ ngác của tôi, Rajiva tiếp tục giải thích:
–
Anagamin có thể dịch thành “Không trở lại”. Nghĩa là, các tu sĩ đạt
đến cấp độ này, sau khi viên tịch, sẽ hóa sinh giữa cõi trời thanh tịnh, tiếp
tục thiền định để giải thoát khỏi năm điều trói buộc[12],
tức là được giải thoát hoàn toàn và sẽ không trở lại cõi phàm trần này nữa
Rajiva
nghẹn ngào, hít một hơi thật sâu, nhưng giọng nói càng lúc càng trở nên run
rẩy:
– Mẹ
tôi đã đắc thành đạo, từ nay thoát khỏi vòng luân hồi khổ ải, người đến được
cõi cực lạc rồi…
Cuối
cùng thì tôi đã hiểu, Rajiva nói dài như vậy, là muốn cho tôi biết, Jiva, Jiva
đã qua đời tại Thiên Trúc.
Các tài
liệu lịch sử chỉ viết rằng Jiva một mình rời khỏi Khâu Từ để đến Ấn Độ. Nhưng
sau đó không có bất cứ ghi chép nào về bà. Vậy là bà đã mất tại Ấn Độ. Và hung
tin này, Rajiva mới nhận được từ sư phụ Banduatta..
Tôi
bàng hoàng nhìn Rajiva, chả trách cậu ấy đau buồn đến như vậy. Jiva là người có
sức ảnh hưởng lớn lao đến cuộc đời Rajiva, hơn bất cứ ai. Bà đã đưa Rajiva đến
cửa Phật, đã dắt Rajiva đến Kabul học đạo để tránh vòng vây của những lời tung
hô, ca tụng sáo rỗng ở Khâu Từ, cũng chính bà khuyên Rajiva theo học giáo
thuyết Đại Thừa. Trước hai mươi mốt tuổi, mọi thứ trong cuộc đời Rajiva đều do
mẹ cậu ấy bày đặt. Với Kumarayana, Jiva có thể không phải là một người vợ hiền,
nhưng với Rajiva, bà là người mẹ tuyệt với, là người chỉ huy, là người dẫn
đường của cậu.
–
Rajiva, nếu cậu buồn thì hãy…
–
Không!
Rajiva
xúc động, hơi thở gấp gáp:
– Tôi
không buồn. Mẹ đã chứng tam quả, ước nguyện giải thoát của người đã thành hiện
thực. Người đã đến cõi cực lạc, từ nay tháo khỏi mọi ư phiền, vì sao tôi phải
đau buồn, tôi không nên đau buồn!
Rajiva
bị chấn động mạnh, rõ ràng trái tim cậu ấy đang đập dữ dội và hơi thở trở lên
gấp gáp khác thường, có thể dễ dàng nhận ra đó là những lời nói dối gắng gượng
của cậu ấy.
–
Rajiva.
Tôi nhẹ
nhàng vỗ vai Rajiva.
– Trong
hoàn cảnh này, ai cũng sẽ đau lòng, điều đó rất bình thường. Bởi vì cậu có tình
yêu, cậu yêu mẹ cậu. Vậy thì vì sao cậu phải kìm chế, không thể hiện ra những
cảm xúc đó?
– Tình
yêu ư?
Rajiva
khẽ nhẩm lại từ này, một tiếng “yêu” mà như có sức nặng ngàn cân,
khiến cậu ấy đọc không thành tiếng, chỉ có những âm hưởng run rẩy.
– Đức
Phật nói rằng, mọi thứ trên cõi đời này đều không tồn tại. Rajiva là người tu
hành, đâu có thể có “tình yêu”?
– Giáo
lý Phật giáo dạy rằng cuộc đời này những chuỗi đau khổ: sinh lão bệnh tử, yêu
thương, căm ghét, chia ly, thất vọng, bởi vì căn nguyên của mọi nỗi khổ xuất
phát từ tình yêu. Chỉ cần “diệt” được “yêu”, sẽ lên cõi
Niết Bàn, từ đó thoát khỏi bể khổ luân hồi, bước vào cõi vình hằng. Nhưng, hãy
thử nghĩ xem, lẽ nào Phật tổ không có tình yêu? Ngài có vợ con kia mà, lẽ nào
ngài chẳng hề bận lòng về họ? Ngài đưa ra lời răn “diệt ái dục”. vì
ngài từng nếm trải nỗi khổ sở do yêu thương mang lại? Nhưng nếu thực sự có thể
“diệt ái dục”, thì vì sao chỉ đến lúc chết ngài mới đạt được sự giải
thoát? Niết Bàn, tịch diệt, tác diệt, diệt độ, tịch, vô sinh, trạch diệt, ly
hệ, giải thoát… tất cả những cách gọi đó, chẳng qua chỉ là từ đồng nghĩa với
cái chết mà thôi. Chỉ khi chết đi người ta mới tận diệt được mọi ác dục. Phải
chăng chính vì thấu tỏ điều này, nên Phật tổ mới vẽ ra một viễn cảnh, một thế
giới tây phương cực lạc sau khi chết, để bù đắp những mất mát, những đau khổ mà
người tu hành phải chịu đựng khi quyết tâm diệt ái dục trong kiếp này. Nhưng vì
sao, nhất định phải…
– Ngải
Tình!
Rajiva
gằng giọng ngắt lời tôi, khóe môi
rung động, tay ôm đầu, vẻ đau khổ cùng cực.
– Đừng
nói nữa…
Rajiva
xoay đầu qua một bên, không để tôi nhìn thấy gương mặt cậu. Đôi vai rung rung
dưới ánh trăng, tôi nghe thấy hơi thở gấp gáp của cậu ấy. Tôi đứng lên, bước
sang phía đối diện, đặt tay mình lên đôi vai của Rajiva, nhẹ nhàng ôm cậu ấy
vào lòng. Toàn thân cậu ấy như tê liệt, Rajiva không đẩy tôi ra, nhưng dường
như đang cố nín thở.
– Hãy
khóc đi, cậu là con người không phải thánh thần. Người ta khóc thương người
thân của mình, có gì không phải đâu. Muốn khóc thì hãy khóc cho thỏa, như thế
cậu sẽ thấy dễ chịu hơn…
Tôi nhẹ
nhàng vỗ về cậu ấy, Rajiva trong vòng tay tôi, tuy dáng người cao lớn, nhưng
thân hình mảnh khảnh, gầy guộc khiến tôi thấy xót xa. Tôi
ước mình có thể hóa thân thành Jiva đẻ an ủi cậu ấy.
Sau rất
nhiều tranh đấu (có lẽ vậy), Rajiva rụt rè vòng tay ôm ấy tôi. Động tác ấy khẽ
khàng, như thể đang ôm một người bằng giấy và sợ người đó sẽ tan biến đi.
– Ngải
Tình!
Tôi cảm
thấy được khuôn ngực thổn thức của cậu ấy, sức mạnh nơi cánh tay tăng dần, càng
lúc càng xiết chặt hơn.
– Ngải
Tình!
Rajiva
khẽ gọi tên tôi, những giọt nước mắt nóng ấm nhỏ trên vai áo tôi, làn gió lướt
qua làm nguội đi hơi ấm, nhưng ngay lập tức những giọt nước mắt nóng ấm liên
tục rớt xuống. Cuối cùng thì Rajiva cũng đã được khóc như một con người bình
thường.
Cậu ấy
đã khóc rất lâu, như thể đây là lần đầu tiên trong đời được khóc vậy. Khóc như
thể cạn nước mắt của cả một đời người. Tôi cũng khóc cùng cậu ấy. Chúng tôi cứ
thế, trong vòng tay nhau, dốc hết sức để khóc, khóc cho đến khi cả đất trời
cũng mòn tan thành nước mắt…
Không
biết phải mất bao lâu chúng tôi mới bình tâm trở lại. Tôi chưa bao giờ khóc
nhiều như vậy, mệt mỏi rã rời, tôi tựa vào cậu ấy
để không gục xuống. Rajiva cũng đã thôi khóc,
nhưng vẫn ôm chặt lấy tôi. Hơi ấm tỏa ra từ cơ thể cậu ấy thiêu đốt trái tim
tôi. Tôi không muốn vòng tay ấy buông lơi, tôi thậm chí không dám thốt lên nên
một lời nào vì sợ sẽ làm hỏng không khí này. Sau cùng, Rajiva là người chủ động
buông tay, ánh mắt giấu đi rất xa, tôi không nhìn thấy biểu cảm của cậu ấy, chỉ
nghe thấy giọng nói chậm rãi:
– Mẹ
biết ước nguyện của tôi là đến Trung Nguyên truyền bá giáo lý Đại Thừa, nên
trước khi rời Khâu Từ, người từng nói với tôi: Giáo lý Đại Thừa muốn đến được
Đông Thổ (đất Hán), tất cả dựa vào tôi. Nhưng trách nhiệm nặng nề này không hề
có lợi cho cá nhân tôi. Mẹ có hỏi tôi, rằng tôi dự định thế nào?
Tôi vẫn
còn chìm đắm trong những xúc cảm khi nãy, nên chỉ biết yên lặng nhìn cậu ấy.
Rajiva ngừng lại một lát, rồi tiếp tục:
– Tôi
trả lời rằng: Phật giáo Đại Thừa giúp ích cho mọi người chứ không phải chỉ cho
bản thân. Nếu tôi có thể truyền bá rộng rãi giáo lý của Phật tổ, giúp chúng
sinh giác ngộ và từ đó thoát khỏi bể khổ, thì dù có phải nhảy vào chốn dầu sôi
lửa bỏng, Rajiva cũng quyết không từ nan.
Khi
Jiva còn ở bên cạnh, Rajiva giống như một thần đồng được bảo bọc và chăm sóc
chu đáo. Rajiva tuy thông minh tuyệt đỉnh, những cậu giống như loài hoa trong
nhà kính, chưa từng trải qua gió mưa bão bùng. Sau khi Jiva ra đi, Rajiva phải
dựa vào nghị lực của mình để bước tiếp con đường chông gai. Lí tưởng của cậu,
phải chăng đã được hình thành từ khi còn nhỏ? Nhưng Rajiva đâu biết rằng, những
lo lắng của Jiva đã trở thành hiện thực trong tương lai. Cái giá mà Rajiva phải
trả cho lí tưởng truyền bá đạo Phật ở Trung Nguyên là những lời chỉ trích gay
gắt của người đời, nếu có thể, tôi ước gì mình không biết trước tương lai của
cậu.
–
Rajiva, tuy mẹ cậu không ở bên cạnh, nhưng bà luôn sống trong trái tim cậu. Bất
cứ khi nào gặp khó khăn, cậu sẽ nhớ đến lời hứa với mẹ và cậu sẽ vượt qua tất
cả, đúng không?
Rajiva
gật đầu, tôi tìm cách chuyển chủ đề, những mong cậu ấy sẽ vơi đi đau buồn.
–
Rajiva, hãy kể cho tôi nghe chuyện hồi nhỏ của cậu, những chuyện mà tôi không
biết ấy.
Nói
rằng muốn chuyển chủ đề chỉ là cái cớ, vì tôi thực sự tò mò về tuổi thơ của cậu
ấy.
Chúng
tôi tựa vào vai nhau, lắng nghe câu chuyện vầ Rajiva hồi nhỏ: sự nghiêm khắc và
tình yêu của Jiva dành cho cậu, những câu chuyện vui về sư phụ và các sư huynh
của cậu, những chuyến du ngoại khắp các tiểu quốc ở Tây vực của cậu. Chuyện nào
cũng khơi gợi niềm phấn khích trong tôi. Thì ra một người có chỉ số IQ 200 như
Kumarajiva, hồi nhỏ cũng từng trêu chọc các sư huynh, cũng từng bị mẹ trách
phạt vì không học thuộc các bài kệ. Thì ra Rajiva cũng có tuổi thơ, tôi cứ
nghĩ, ngay từ khi còn nhỏ cậu ấy đã là một người thông tuệ và già dặn rồi.
Tôi
muốn Rajiva tạm quên đi nỗi đau mất mát kia và vui lên một chút, nên đã kể cho
cậu ấy nghe về gia đình tôi, về bố mẹ tôi, về các bạn học của tôi, về sếp của
tôi, về những cuốn sách tôi từng đọc, những nơi tôi từng đi qua. Tất nhiên là
tôi đã lựa chọn từ ngữ sao cho cậu ấy có thể hiểu được và tránh không để lộ
“thiên cơ”.
Phía xa
xa bên kia dãy Thiên Sơn, những quầng đỏ màu son nhạt đã hiện lên trên nền
trời, bầu trời ngàn sao lấp lánh vừa mới đây đã lặn mất tự lúc nào. Tôi xem
đồng hồ, gần bốn giờ sáng, vậy là chúng tôi đã ngồi suốt một đêm. Tôi ngước
nhìn Rajiva.
–
Rajiva, về thôi, sắp đến giờ tụng kinh buổi sáng của cậu rồi.
Rajiva
như vừa tỉnh cơn mơ.
– Chúng
ta đã ngồi hết đêm ư? Ngải Tình, có mệt không?
Tôi lắc
đầu. Tuy tôi không mệt, nhưng toàn thân lạnh tê tái. Chiếc áo khoác mỏng manh
không đủ che chắn khí lạnh buổi ban mai.
Rajiva
cầm tay tôi, bàn tay cậu ấy cũng không ấm hơn,những ngón tay dài vuốt nhẹ bàn
tay tôi, tôi mỉm cười nhìn cậu ấy vất vả cọ xát đôi tay để tạo hơi ấm. Rajiva
ngước mắt lên, thấy tôi cười, cậu không tiếp tục chà tay nữa, mà cầm hai bàn
tay tôi áp lên hai má của cậu. Tôi nín cười, hệt như có một cơn lũ vừa quét
qua, phòng tuyến kiên cố cuối cùng trong trái tim tôi, vỡ òa..
Chúng
tôi đứng im lìm, nhìn vào mắt nhau, bàn tay tôi áp chặt trên khuôn mặt có chút
hơi ấm của Rajiva. Lòng bàn tay chạm vào thứ gì đó ran rát, thì ra là những đốm
râu mới mọc. khoảnh khắc ấy, tựa như có một luồng điện lan truyền khắp cơ thể,
khiến toàn thân tôi run rầy. Tôi đã hoàn toàn hiểu ra điều này.
Tôi yêu
Rajiva.
Đúng
vậy, tôi đã yêu cậu ấy từ rất lâu rồi, vào khoảnh khắc tôi gặp lại cậu ấy. Cũng
không có gì lạ, một chàng trai thông minh, ưu tú với vẻ điển trai hút hồn như
cậu ấy có thể khiến bất cứ cô gái nào trên đời này xiêu lòng. Tôi sẽ không do
dự, không cự tuyệt nữa. Yêu thì cứ yêu thôi, làm sao tôi có thể phủ nhận cái
thứ tình cảm tự nhiên nhất của loài người nay kia chứ! Tôi chỉ là một người
bình thường. Tôi không thể diệt được ái dục, nên tôi không cần phải tranh đấu,
dằn vặt và tự làm khổ mình. Lúc trước, tôi đấu tranh với bản thân để phủ nhận
tình cảm này, bởi tôi đã nhìn nhận tình yêu bằng lí trí chủ quan cứng nhắc của
con người hiện đại. Tôi muốn tình yêu phải được đáp lại. Tôi luôn viện cớ công
việc, lúc nào cũng nhắc nhở bản thân phải quay về và tôi lo lắng, nếu yêu
Rajiva, tôi sẽ không có tương lai. Nhưng, nhưng nếu tôi không quay về thì sao?
Nếu tôi đòi hỏi phải được ở bên cạnh cậu ấy thì sao? Nếu tôi cần tương lai thì
sao? Có ai nói nếu yêu cậu ấy thì tôi không thể tiếp tục công việc của mình
đâu. Tôi chỉ biết, điều tôi muốn lúc này là yêu Rajiva và tôi sẽ yêu cậu ấy
theo cách của mình. Tôi cũng có thể không để cậu ấy biết được tình cảm của
mình. Tôi cũng có thể tiếp tục âm thầm nhớ, âm thầm yêu sau khi trở về thế kỷ
XXI. Chỉ cần được yêu cậu ấy, tôi mặc kệ những chuyện về sau. Việc gì phải lí
trí, việc gì phải suy xét thiện hơn mọi đường cơ chứ?
– Ngày
kia là lễ hội Sumuzhe, hôm nay cô hãy lên đường đến thành cổ Khâu Từ đi.
Giọng
nói ấm áp lướt qua bên tai tôi.
– Hãy
về nghỉ ngơi đi, tôi dặn dò Kaodura đưa cô đến thành cổ Khâu Từ, tôi đã sắp xếp
nhà trọ cho cô. Hay là về phủ quốc sư? Cô vẫn muốn gặp Pusyeda kia mà!
Kaodura
ư? Tôi sững người, đó là người đánh xe ngựa của Rajiva.
– Tôi
sẽ ở lại nhà trọ, tôi sợ đến phủ quốc sư sẽ khiến mọi người hoảng sợ. Còn
Pusyeda, trước khi rời khỏi Khâu Từ, tôi sẽ đến gặp cậu ấy.
Sau khi
lễ hội kết thúc, tôi sẽ tìm cách gặp Pusyeda. Mười năm trước, cậu bé rất quý
mến tôi, nhưng giờ cậu đã là một chàng trai trưởng thành, đã có cuộc sống
riêng, tôi không muốn làm ảnh hưởng đến cậu ấy. Chỉ cần được nhìn thấy Pusyeda
là tôi có thể yên tâm được rồi. Điều tôi mong muốn nhất, thực ra là…
– Cậu…
cậu…
Chần
chừ, chần chừ, rồi lại chần chừ.
– Cậu…
có đến không?
Rajiva
thoáng giật mình, nhẹ nhàng thả tay tôi ra.
– Sư
phụ vẫn còn đây, hơn nữa…
– Tôi
biết rồi, giới luật quy định, cậu không được đến nơi hội hè ca múa.
Nén lại
nỗi thất vọng đang nhen lên trong lòng, tôi làm bộ tỉnh bơ:
– Tôi
chỉ hỏi vậy thôi. Cậu… không cần phải đến, cũng không thể đến…
Rajiva
thinh lặng, đứng lên, ánh nắng dìu dịu buổi ban mai phủ lên lớp áo cà sa màu
nâu sòng, làm gió lật bay nhè nhẹ những nếp áo. Cậu ấy đứng đó, đẹp tựa một pho
tượng Hy Lạp cổ tạc trước bình mình.