Đoàn chúng tôi bị chặn lại ở cổng thành Ngọc
Môn Quan. Tôi và Rajiva, cùng hàng vạn nghệ nhân Khâu Tử khác đều ở cuối đoàn,
nên ngoài tôi ra, không ai biết chuyện gì đang xảy ra. Hôm đó, chúng tôi được
lệnh dựng trại ngoài thành Ngọc Môn Quan. Không ai có thể ngờ, hơn mười ngày
sau, chúng tôi vẫn phải sống trong những lán trại bên ngoài thành đó.
Thứ sử Lương Châu do
Phù Kiên sắc phong – Lương Hy kiên quyết không cho Lữ Quang qua ải Ngọc Môn và
khiển trách Lữ Quang trái lệnh Phù Kiên, tự ý về kinh. Sự thực là Lữ Quang trở
về theo chiếu thư của Phù Kiên, nhưng có lẽ Lương Hy muốn thừa dịp
Phù Kiên thất thế để đục nước béo cò, cát cứ phân tranh, nên mới viện ra cái cớ
vô lý đó, hòng định tội Lữ Quang. Lương Hy phái con trai là Lương Dẫn cùng bộ
tướng Diêu Hạo, dẫn theo năm vạn quân đến chặn đánh Lữ Quang.
– Kết cục thế nào?
Chúng tôi nằm ôm nhau
tâm sự, tôi ngã đầu trên cánh tay chàng, cảm giác thoải mái, dễ chịu vô cùng.
– Lữ Quang không phải
một người tốt, nhưng ông ta khá có tài đánh trận, lại có một trợ thủ đắc
lực, giỏi phân tích và phán đoán tình hình là Đỗ Tấn.
Cuộn tròn và vùi sâu
mình trong lòng chàng, hít hà hơi thở đượm mùi đàn hương rất đặc biệt của
chàng, cảm giác vô cùng khoan khoái.
– Lương Hy vốn
là thư sinh nho nhã, nhưng không cơ trí, gian hùng, không giỏi dụng binh, không
chịu nghe lời can gián. Đỗ Tấn sẽ hiến kế với Lữ Quang, lợi dụng mâu thuẫn
trong quân đội của Lương Hy, tiến đánh bất ngờ. Đỗ Tấn thậm chí sẽ lấy đầu mình
ra đảm bảo cho trận đánh này.
Chúng tôi ở hậu
phương, nhưng vẫn nghe rõ tiếng gươm đao phía trước. Chỉ một ngày,
tin chiến thắng của Đỗ Tấn đã được loan báo khắp trong quân. Mấy ngày sau, không
cam tâm, Lương Dẫn lại kéo quân đến gây chiến, bị Đỗ Tấn đánh cho tan tác.
Lương Dẫn cùng hàng trăm kỵ binh chạy trốn về hướng Đông, bị Đỗ Tấn truy đuổi
và bắt sống. Tài chỉ huy hiệu quả trong biến cố tại hẻm núi lúc trước và chiến
công đánh bại Lương Dẫn trong cả hai trận đánh vừa qua đã khiến uy danh của Đỗ
Tấn nổi như cồn khắp toàn quân. Nhưng tôi không nén nổi tiếng thở dài. Đỗ Tấn
là người có đầu óc hơn Lữ Quang, nhưng phó tướng lập công lớn thường khiến chủ
tướng lo sợ, lịch sử đã chứng minh, vì bị Lữ Quang ghen ghét đố kỵ nên chỉ mấy
năm sau, Đỗ Tấn đã mất mạng.
Vì Rajiva không bao
giờ chịu ngồi yên một chỗ, nên mấy ngày nay cả hai chúng tôi đều rất bận rộn,
Rajiva tụng kinh siêu độ cho các tử sĩ và chữa trị cho những người bị thương.
Tôi trở thành trợ lý của chàng, những tri thức về vệ sinh dịch tễ ít ỏi của tôi
ở thời hiện đại đã phát huy tác dụng, chí ít nó đã giúp giảm đáng kể tỉ lệ lây
nhiêm bệnh tật của các thương bệnh binh giữa mùa hè nóng bức này.
– Một ngày nọ, Phật tổ
Thích Ca Mâu Ni dẫn theo các đệ tử xuất hành, bỗng trên đường đi Ngài trông
thấy một đống xương khô. Phật tổ cung kính vái lạy đống xương ấy, đệ tử A Nan
lấy làm băn khoăn, Phật bảo rằng: “Xương cốt này biết đâu là xương cốt của tổ
tiên hay cha mẹ ta trong nhiều đời trước. Bởi nhân duyên ấy mà ta nay lễ bái
họ. A Nan, con hãy chia đống xương này làm hai phần. Nếu là xương cốt của đàn
ông thì sẽ có màu trắng và nặng hơn. Nếu là phụ nữ, thì sẽ có màu đen và nhẹ
hơn.”
Bốn năm mươi binh sĩ
chen nhau trong lán trại của chúng tôi, không còn chỗ ngồi, họ phải đứng nghe
Rajiva giảng kinh. Ý tưởng ban đầu của Rajiva là giảng kinh để động viên các
binh sĩ bị thương. Nhưng thông tin này đã truyền đi nhanh chóng trong
đoàn quân, chỉ vài ngày sau đã có rất nhiều binh sĩ khẩn cầu Rajiva thuyết
giảng kinh Phật. Và rồi mỗi tối, họ đều đến lán trại của chúng tôi nghe Rajiva
giảng kinh nửa canh giờ.
Rajiva có biệt tài
dùng các câu chuyện để minh họa và diễn giải những giáo lý Phật pháp uyên thâm.
Từ sau thảm biến tại hẻm núi kia, danh tiếng của Rajiva đã văng khắp toàn quân,
các binh sĩ tôn kinh chàng như thần linh. Tín đồ của chàng ngày càng đông.
Tôi đặt cốc nước trước
mặt chàng. Bao nhiêu con người chen chúc trong lán trại chật hẹp, không khí bí
bách, nóng nực, oi nồng vô cùng. Nhưng các binh sĩ vẫn say mê nghe giảng, không
ai chịu ra ngoài. Mồ hôi đầm đìa, Rajiva đưa tay lên lau trán, tiếp tục giảng
kinh:
– Tôn giả A Nan khi ấy
chắp tay bạch rằng, sau khi chết, xương cốt của đàn ông và phụ nữ đều như nhau,
làm sao để phân biệt? Phật bảo với A Nan: “Người đàn ông lúc sinh thời, nếu họ
chăm chỉ vào chùa nghe giảng kinh Phật, thì xương cốt của họ sẽ có màu trắng và
nặng. Phụ nữ là những người nặng về tình cảm, họ phải sinh đẻ và nuôi nấng con
cái và cho đó là bổn phận của mình. Mỗi em bé khi lọt lòng đều được nuôi sống
nhờ sữa mẹ. Sữa đó là do máu chuyển biến thành. Vì nuôi con vất vả, người
mẹ ngày một héo hon, tiều tụy, xương cốt chuyển sang màu đen và trọng lượng
cũng nhẹ đi.
Có ai đó đã khóc nấc
lên thành tiếng:
– Bây giờ, đệ tử mới
biết, ơn mẹ như núi cao.
Rajiva đưa mắt khắp
lượt các binh sĩ ánh mắt thương cảm, chậm rãi nói:
– Không chỉ có ơn cho
con bú mớm, mẹ ta còn có mười ơn đức lớn sau: Thứ nhất, ơn hoài thai và dưỡng
thai. Thứ hai, ơn chịu đau lúc sinh nở. Thứ ba, ơn quên đi sầu muộn khi con
chào đời. Thứ tư, ơn ngậm cay nuốt đắng để mớm phần ngọt cho con. Thứ năm, ơn
nằm chỗ ướt để dành chỗ khô cho con. Thứ sáu, ơn cho bú và nuôi dưỡng. Thứ bảy,
ơn lau rửa sạch sẽ thân thể con. Thứ tám, ơn nhớ nhung khi con đi xa. Thứ chín,
ơn hy sinh thân mình vì con. Thứ mười, ơn hết mực yêu thương con… Nhưng
chúng ta đã báo đáp ân đức của cha mẹ như thế nào?
Chàng ngừng lại, buồn
bã lắc đầu:
– Vẫn có những người
cha người mẹ phải sống cảnh già cả trong cô đơn, bị con cái ghẻ lạnh. Có kẻ chỉ
biết chăm lo cho thê thiếp mà bỏ mặc cha mẹ. Có kẻ đi xa không gửi về cho cha
mẹ một dòng thư, khiến cha mẹ ngày đêm mong nhớ, bồn chồn không yên. Các vị ở
đây, có ai từng mắc những tội này không?
Có người giấu mặt rưng
rức khóc, có kẻ đấm ngực tự trách, có kẻ gào lên thảm thiết:
– Chúng con đều có
tội, vì không biết đến công ơn to lớn ấy của bậc sinh thành, chúng con là lũ
con bất hiếu! Cúi xin pháp sư rủ lòng thương, vạch đường chỉ lối cho chúng con,
làm thế nào để báo đáp ân đức của cha mẹ?
Rajiva nhìn tôi, khẽ gật
đầu, tôi bèn đưa cho chàng cuốn kinh đã chuẩn bị từ trước.
– Hôm nay ta giảng
kinh “Phật nói, cha mẹ ân trọng khó báo đáp”. Cuốn kinh này ta vừa dịch xong
hôm qua, chỉ có một quyền duy nhất. Nếu muốn báo ơn, hãy chép và tụng đọc kinh
này thường xuyên để sám hối những tội lỗi của mình. Hãy vì cha mẹ mà cúng đường
Tam Bảo. Hãy vì cha mẹ mà ăn chay và tuân thủ giới luật. Hãy vì cha mẹ mà làm
việc thiện và tu dưỡng đạo đức. Tuy các vị đều xa nhà, xa cha mẹ, nhưng lòng
hiếu thảo không suy chuyển, các vị vẫn là những người con có hiếu.
Mấy ngày trước đó,
chúng tôi đã cùng thảo luận xem nên thuyết giảng cuốn kinh văn nào. Đa phần các
binh sĩ đều là những người không biết chữ, chỉ nên giảng giải những kinh
văn đơn giản, dễ hiểu. Vậy nên, Rajiva đã chọn ra cuốn kinh văn về lòng hiếu
thảo và chàng dành ra mấy ngày trời để dịch sang tiếng Hán. Cuốn kinh này tuy
rất ngắn, nhưng chàng vẫn thận trọng, cùng tôi phân tích, soi xét tỉ mỉ từng
chữ một. Sau khi hoàn thành, tôi vui mừng khôn xiết, vì đây là tác phẩm đầu tay
của dịch giả Kumarajiva nổi tiếng. Ngôn ngữ trau chuốt, dễ đọc dễ thuộc, những
bài kệ với tiết tấu, vần luật nhịp nhàng, trôi chảy, đó là dấu hiệu của một
phong cách dịch thuật đỉnh cao, sẽ được thể hiện toàn vẹn trong những năm tháng
ở Trường An sau này.
– Xin pháp sư hãy giao
bộ kinh văn này cho đệ tử. Đệ tử từng đến trường, có biết chút ít chữ nghĩa. Đệ
tử chép xong sẽ gửi lại pháp sư.
Người đó là đội trưởng
Trình Hùng, ngoài ba mươi tuổi, tuy xấu xí, cục mịch nhưng rất hiếu học và
thành tâm, thường hay tìm gặp Rajiva để hỏi về kinh văn Phật pháp.
Rajiva gật đầu, giao
cho Trình Hùng thành quả suốt mấy buổi tối của chúng tôi. Anh ta cung kính đón
lấy cuốn kinh, chỉ một lát sau đã bị vây bọc bởi rất nhiều người, đề nghị anh
ta chép thêm cho mấy cuốn. Buổi giảng kinh kết thúc, mọi người đã ra về, tôi và
Rajiva nhìn nhau mỉm cười. Tôi lấy khăn ướt, lau mồ hôi trên mặt chàng.
Chàng cầm tay tôi, khẽ
the dài:
– Không biết cha mẹ ta
ở trên trời có được bình an.
Nhắc đến bố mẹ chồng,
những ký ức về họ lại hiện lên sống động trước mắt tôi. Tôi cũng thở dài, nắm
lấy tay chàng:
– Cả đời làm việc
thiện, lại một lòng thờ Phật. Phật tổ từ bi, chắc chắn sẽ tác hợp cho họ để họ
được ở bên nhau. Em tin rằng họ đang dõi theo và phù hộ cho chúng ta…
Chàng nhìn tôi, gật
đầu đồng tình, yên lòng nở nụ cười rạng rỡ. Đúng lúc ấy, có ai đó xông vào
trong lán, chúng tôi giật mình, vội vã tách nhau ra. Thì ra là Trình Hùng,
không hiểu vì sao anh ta đột nhiên quay lại.
Trình Hùng quỳ sụp
xuống, khấu đầu:
– Thưa pháp sư, những
ngày qua được pháp sư giáo hóa, con nhận ra rằng con rất muốn được thờ phụng
Phật tổ, cầu xin ngài nhận con làm đệ tử, xin hãy xuống tóc cho con.
Rajiva lắc đầu:
– Anh có vợ có con,
trong nhà lại còn cha mẹ già cả, không thể xuất gia.
Anh ta vừa quỳ vừa lê
đến bên chân Rajiva, van nài khẩn thiết:
– Pháp sư, đệ tử một
lòng hướng Phật, nguyện từ bỏ vợ con và gia đình, chỉ mong được thành Phật.
– Bỏ vợ bỏ con sao có
thể thành Phật được! Làm con, làm chồng, làm cha là trọng trách trời ban, sao
anh có thể bất hiếu, bất nghĩa như vậy!
Rajiva chau mày:
– Anh có lòng hướng
Phật là rất tốt, nhưng muốn được thành Phật không nhất thiết phải xuất gia, anh
có thể tu tại gia. Trình Hùng băn khoăn không hiểu và không chịu đứng lên:
– Xin pháp sư chỉ dẫn
cho con cách tu hành tại gia!
Rajiva đỡ anh ta đứng
dậy, nghiêm nghị hỏi:
– Cư sĩ phải tuân thủ
năm điều giới luật: không sát sinh, không trộm cướp, không tà dâm, không nói
dối, không uống rượu. Anh có thể nghiêm chỉnh tuân thủ giới luật, làm việc
thiện và tu dưỡng đạo đức không?
– Dạ thưa…
Anh ta ngập ngừng,
ngẩng đầu nhìn Rajiva, vẻ mặt đầy ăn năn:
– Bàn tay đệ tử đã
nhuốm máu mấy chục mạng người, giết người gây tội ác, đệ tử tự thấy mình tội
lỗi chất chồng. Từ nay về sau, xin hứa nghe theo lời thầy, tuân thủ nghiêm ngặt
giới luật, làm việc thiện, cầu mong sao được giải thoát.
– Trong tâm có Phật,
đó mới là điều căn bản.
Rajiva gật đầu: – Ta
sẽ thọ giới, để anh làm cư sĩ tại gia. Sau khi thọ giới, Trình Hùng hoan hỉ ra
về, đây là vị cư sĩ đầu tiên trong đoàn quân. Chờ khi chỉ còn lại hai chúng
tôi, tôi hỏi Rajiva:
– Anh ta là quân nhân,
không giết người e là không thể. Tội phá giới sẽ nghiêm khắc hơn nếu anh ta
không làm cư sĩ.
Rajiva gật đầu, thở
dài:
– Nếu anh ta biết tuân
thủ giới luật, trong lúc giao tranh, không lấy mạng của đối thủ, như vậy đã lập
công đức to lớn lắm rồi!
Trình Hùng đã chép ra
rất nhiều bản “Kinh Phật nói cha mẹ ơn trọng, khó báo đáp”, sau đó cuốn kinh
này được truyền đi rất nhanh trong đoàn quân. Rất nhiều người đã đến thỉnh giáo
Rajiva về Phật pháp, hoặc đến hỏi tôi những chữ không đọc được. Cuốn kinh
này giản dị, dễ hiểu, dễ thấm, nên chẳng mấy chốc, đã dấy lên lòng hướng thiện
trong toàn quân.
Mùa hè năm 385 sau
Công nguyên, thời tiết oi bức dị thường, mấy tháng liền không có lấy một giọt
mưa. Tháng Tám năm đó, khi chúng tôi tưởng chừng không thở nổi với cái nắng
nóng nơi đây, quân đội của Lữ Quang đã tiêu diệt hoàn toàn quân chủ lực của
Lương Hy và tiến vào Ngọc Môn Quan.
Hoàng hà, mây trắng
liền nhau
Thành côi một mảnh,
núi cao tiếp trời
Thổi chi Chiết Liễu
sáo ơi
Gió xuân đâu lọt ra
ngoài Ngọc Môn[1]
[1] Bài thơ “Khúc
Lương Châu” – Vương Chi Hoán, bản dịch của Tương Như. Khúc Chiết liễu thời xưa,
phổ cho sáo, gợi nỗi buồn người đi chinh chiến hoặc kẻ xa nhà.
Cửa ải cô liêu đứng
sừng sững trên núi cao này được biết đến nhờ những chuyến hàng ngọc Khotan được
chuyên chở qua đây để vào Trung Nguyên. Vào thời cổ đại, khái niệm biên giới
quốc gia không rõ ràng như thời hiện đại, cửa ải Ngọc Môn chỉ được hiểu là nơi
phân chia ranh giới giữa Tây vực và Trung Nguyên, tiến vào Ngọc Môn Quan tức là
đã đặt chân lên mảnh đất Trung Nguyên rộng lớn.
“Mưa mai thấm bụi Vị
Thành
Liễu bên quán trọ sắc
xanh ngời ngời. Khuyên anh hãy cạn chén mời Dương Quan ra khỏi ai người cố
tri[2]”
[2] Bài thơ “Tiễn bác
Hai Nguyên đi sứ An Tây” – Vương Duy, bản dịch của Tương Như.
Phải qua cửa ải Dương
Quan, bạn mới có thể tiến vào thành phố phồn hoa nhất ở cực Tây – thành Đôn
Hoàng. Hán Vũ Đế đã “lập bốn quận, dựng hai ải” trên hành lang Hà Tây. Bốn quận
đó là Vũ Uy, Trương Dịch, Tửu Tuyền, Đôn Hoàng, hai cửa ải là Ngọc Môn Quan và
Dương Quan. Bốn quận nêu trên, đồng thời là bốn thành phố quan trọng nhất trên
hành lang Hà Tây, cả bốn thành phố vẫn tiếp tục tồn tại và phát triển cho đến
tận thế kỷ XXI, ngay cả tên gọi cũng vẫn được giữ nguyên sau hơn hai
nghìn năm.
Hai cửa ải chiến lược
Ngọc Môn Quan và Dương Quan, đến đời Tống thì đã không còn thuộc lãnh thổ của
nhà Tống nữa. Cùng với sự suy yếu của con đường tơ lụa, hai cửa ai này dẫn trở
nên hoang phế, sau cùng đã bị vùi sâu trong gió cát. Đến thế kỷ XXI, nơi đây
chỉ còn lại dấu tích của một vài phong hỏa đài, đứng chơ vơ giữa sa mạc mênh
mông, khiến hậu thế không khỏi thổn thức khi ngâm ngợi những vần thơ đầy hào
khí đời Đường, tưởng niệm những năm tháng huy hoàng, hào hùng.
Tôi đặt chân đến thành
Đôn Hoàng với lòng thành kính và ngưỡng vọng, đây là vùng thánh địa thiêng
liêng mà mọi người ở thế kỷ XXI đều mong muốn được ngắm nhìn. “Đôn nghĩa là to
lớn, Hoàng nghĩa là phồn thịnh”. Đối với con người thời hiện đại, ý nghĩa
của thành Đôn Hoàng nằm ở những bức bích họa trên những động đá kỳ vĩ đã trải
qua hàng nghìn năm, là nỗi sỉ nhục khi Tàng kinh động bị bọn người Marc Aurel
Stein cướp đoạt, là nỗi bi phẫn sau khi đọc bài viết “Tháp đạo sĩ” của Dư Thu
Vũ.
Hai mắt tôi sáng long
lanh khi mô tả những bức bích hoạt tinh xảo trong thạch động ở Mạc Cao cho
Rajiva nghe. Thạch động này được xây dựng vào đời Đường, nên thời điểm này tôi
không thể nhìn thấy, đó là điều nuối tiếc nhất trong hành trình trên con đường
tơ lụa của tôi. Tôi khoa chân múa tay trong cỗ xe ngựa chật hẹp, trong khi
chồng tôi chỉ mỉm cười hiền hòa, ngồi một bên nghe tôi kể chuyện, chốc chốc lại
đưa tay ra đỡ tôi khỏi ngã khi xe ngựa lắc lư. Trong lúc cao hứng, tôi đã hát
vang ca khúc chính trong phim “Thành Đôn Hoàng”[3]. Hồi xem bộ phim
truyền hình này, tôi đã mê say khúc ca bi tráng, thê lương ấy.
[3] Phim được chiếu
trên kênh VTV1 năm 2007.
“Gió cuộn Đôn Hoàng
vần vũ, lục lạc lanh canh, khuấy động giấc ngàn năm. Âm thanh tụng niệm vọng
khắp cõi luân hồi. Ta gọi tên em trong Đại tạng kinh, khẽ lay gọi vận mệnh thức
tỉnh. Thạch động hoang tàn, nỗi nhục ngàn năm che khuất ánh bình minh. Mây trôi
muôn dặm, bụi nhuốm đường trần. Ta trình diễn điệu vũ ly tán của ta và em trong
kiếp này bằng tranh thuyết pháp của Bồ Tát”.
Gió cát sa mạc vùi lấp
phồn hoa Đôn Hoàng. Một chén trà giữa thời loạn, dốc cạn vào lòng. “Ta vẽ
tóc em, vẽ gương mặt mà ta hằng nhung nhớ lên bức bích họa phi thiên. Ta ở Đôn
Hoàng chép tranh Bồ Tát, mượn Phật pháp mà cười trông thiên hạ”. Vào thời đại
tôi đang có mặt, sau mười năm nữa, Đôn Hoàng sẽ trải qua một sự kiện lịch sử
trọng đại. Năm 400 sau Công nguyên, Lý Cảo (người Hán) sẽ xưng
vương ở Đôn Hoàng, lập ra nước Tây Lương, đây là lần đầu tiên Đôn Hoàng trở
thành kinh đô của một nhà nước. Lý Cảo chỉnh đốn triều chính, cắt giảm
lao dịch, thuế má, coi trọng Nho học, chăm lo phát triển giáo dục. Bởi vậy,
trong suốt hơn mười năm cai trị, Lý Cảo đã biến Lương Châu hỗn loạn thành một
khu vực tương đối ổn định, người Hán lũ lượt kéo về đây náu thân, văn hóa Đôn
Hoàng phát triển rực rỡ, dẫn đầu Lương Châu về mọi mặt trong suốt một thời kỳ
dài. Nước Tây Lương tồn tại được hai mươi năm, sau đó bị nước Bắc Lương của Thư Cừ Mông Tốn – người Hung Nô tiêu diệt.
Cuối tháng tám, chúng
tôi đến Tửu Tuyền, dừng lại nơi đây tám ngày. Sự kiện khiến Lữ Quang mở
cờ trong bụng khi tới đây là đối thủ đáng gờm của ông ta là Lương Hy đã bị bắt.
Lương Hy trốn đến Guzang, bị thái thú Vũ Uy là Bành Tế lập mưa bắt được, hiến
cho Lữ Quang. Lữ Quang giết chết hai cha con Lương Hy ở Tửu Tuyền. Bước
sang tháng chín, thời tiết vẫn không mát mẻ hơn, mùa thu trốn đâu xa lắc. Trong
cái nắng nóng, oi nồng, mồ hôi đầm đìa lưng áo, chúng tôi tiến vào Guzang –
điểm đến sau cùng của chuyến đi này, đây cũng là thành phố quan trọng nhất ở
Lương Châu.
Guzang là một quận
thuộc Lương châu, đồng thời là căn cứ quân sự quan trọng trên hành lang Hà Tây.
Guzang ban đầu do người Hung Nô xây dựng, sau trở thành nơi sinh sống của nhiều
dân tộc khác nhau: người Hán, người Khương, người Hung Nô. Dân số trong thành khoảng
hơn hai mươi vạn, vào thời Thập lục quốc, Guzang được xem là một thành phố lớn.
Ngoại thành có núi tuyết Kỳ Liên sơn, cỏ cây tươi tốt, là vùng đất màu mỡ, lại
là ranh giới giữa vùng nông canh và vùng du mục. Nhà Tiền Lương của họ Trương
đã khai phá và phát triển đất này được sáu mươi năm. Vì họ Trương là người Hán
nên khi Trung Nguyên xảy ra chiến tranh, rất nhiều người tài và phú hộ đã rời
khỏi Trung Nguyên, đến Lương Châu lánh nạn. Guzang trở thành nơi
tập trung đông đảo nhân tài, kinh tế phát triển phồn thịnh, văn hóa Hán đóng
vai trò chủ đạo.
Xe ngựa lộc cộc lăn
bánh vào thành phố, tôi kéo rèm cửa ra ngắm nhìn. Vị vua đầu tiên của nhà Tiền
Lương – Trương Quỹ là người có công mở rộng Guzang, ông đã cho xây dựng
thêm bốn thành phố vệ tinh quanh thành trì ban đầu, nhờ vậy, diện tích của
Guzang lớn hơn rất nhiều diện tích các tiểu quốc ở Tây vực. Kiến trúc mang
phong cách Hán đang trải ra trước mắt tôi. Đã lâu không được thấy những mái nhà
truyền thống của người Hán với mái chồng và chiếu nghỉ. Hai bên đường bày la
liệt các sạp hàng, trung tân thành phố có lầu trống và lầu chuông, đó là quy
hoạch thành phố điển hình của người Hán.
Tuy vào giai đoạn
thoái trào, nhà Tiền Lương không tránh khỏi tình trạng tranh giành vương vị, triều chính rối loạn liên miên, giống như hầu hết các quốc gia thời
Thập lục quốc, nhưng so với nhà Hậu Triệu của Thạch Lặc, Thạch Hộ ở Trung
Nguyên, thì nhà Tiền Lương của họ Trương phát triển hơn rất nhiều. Vậy
nên, khi Lương Châu rơi vào tay Lữ Quang, vùng đất này không bị tổn hại gì
nhiều, điều đó đã giúp Lữ Quang nhanh chóng xây dựng được bộ máy chính quyền.
Có thể thấy, một trong những yếu tố quan trọng nhất giúp Lữ Quang trở thành vua
một nước trong thời Thập lục quốc đó là sự may mắn.
Năm 401 sau Công
Nguyên, nhà Hậu Lương của họ Lữ đầu hàng nhà Hậu Tần, vài năm sau, vua
Nam Lương là Thốc Phát Nục Đàn tiến vào Guzang. Không lâu sau đó, vua Bắc Lương
là Thư Cừ Mông Tốn tấn công Guzang, đặt Guzang làm kinh đô, cho đến năm 439 sau
Công nguyên, Bắc Lương bị nhà Bắc Ngụy tiêu diệt. Bắc Ngụy tiếp nhận hơn hai
mươi vạn dân của Guzang, về sau, thành Guzang được gọi là thành Vũ Uy.
Một cánh tay đặt lên
vai tôi, quay lại, thấy chàng cũng đang nhìn ra bên ngoài, ánh mắt xa xăm,
dường như đang suy ngẫm điều gì. Tôi nắm tay chàng, đây chính là nơi chúng tôi
sẽ sinh sống trong suốt mười bảy năm trời. Bước vào thế kỷ XXI, nơi đây đã
không còn bất cứ dấu tích nào của thời kỳ Lữ Quang. Cũng chính tại đây, 1650
năm sau, ngôi chùa mang tên Kumarajiva đã được xây dựng, để tưởng niệm
những năm tháng chờ đợi trong âm thầm, mòn mỏi của chàng.