Sau
ngần ấy năm, không biết Pusyseda ra sao, có được bình an trong thời cuộc loạn
lạc này không? Hồi hộp bước tới cổng phủ quốc sư, tôi chợt thấy một binh sĩ
người Khâu Từ đang đứng. May mà Đoàn Nghiệp có mang theo lệnh bài của quân đội
Lữ Quang, nên binh lính Khâu Từ không dám gây khó dễ, đã vội vào trong thông
báo.
Khuôn
viên phủ đệ đã được quét vôi trang trí lại, tuy không tráng lệ nhưng rất tinh
tế, tao nhã. Căn nhà khang trang như vậy, lại có cả lính giữ cổng, điều đó
chứng tỏ sự lo lắng của tôi là thừa, chắc là Pusyseda đang sống rất thoải mái.
Trong
thời gian chờ đợi, tôi thì thầm vào tai Đoàn Nghiệp:
Hào
quang xuất hiện ở Kiện Khang, nghiệp lớn sẽ thành ở Hà Tây. Đại nhân hãy ghi
nhớ, không được tiết lộ thiên cơ, nếu không sẽ mất linh nghiệm.
Đó
là kết quả chắt lọc từ quá trình suy nghĩ của tôi trên suốt đường đi, tuy không
được văn hoa mượt mà cho lắm, nhưng bói toán là phải lấp lửng như vậy. Kiện
Khang ám chỉ sau này Đoàn Nghiệp sẽ được phong làm Thái thú. Thái thú Kiện
Khang, còn Hà Tây tức là hành lang Hà Tây, nơi sau này sẽ là vùng đất của nhà
Bắc Lương mà Đoàn Nghiệp làm vua. Nhưng trong lúc này, chắc chắn anh ta sẽ nghĩ
rằng Kiện Khang là địa bàn của nhà Đông Tấn, Hà Tây là một vùng đất chung
chung, mơ hồ nào đó. Bài bói của tôi cũng khá đấy chứ, có thể xem như không hề
tiết lộ lịch sử.
Thực
ra, sau khi lên ngôi, Đoàn Nghiệp cũng chỉ sống thêm chưa đầy năm năm. Ông ta
bị giết trong trận chiến với Thư Cử Mông Tốn, để rồi sau đó, Mông Tốn tự phong
mình làm vua Bắc Lương. Đoàn Nghiệp qua đời ở tuổi bốn mươi. Nhưng tất nhiên,
tôi không nói những điều này cho ông ta biết. Những câu chữ mà tôi sử dụng đều
đã được chọn lọc kỹ lưỡng. Bởi vậy, lúc chào từ biệt tôi và ra về, niềm hân
hoan rạng rỡ vẫn còn trên gương mặt Đoàn Nghiệp.
Người
trong phủ bước ra, đó là Sukhala, vị quản gia năm nào. Ông đã trở nên già nua,
lụ khụ lắm rồi! Ngước mắt nhìn tôi hồi lâu mà không sao nhớ nổi tên. Tôi mỉm
cười hỏi ông Pusyseda có nhà không.
Ông
đưa tôi vào nhà, nói rằng Pusyseda vẫn ở trong cung, tối mới về. Ông nói sẽ đi
mời phu nhân. Phu nhân ư? Tôi sững sờ, nhưng hiểu ra ngay vấn đề. Pusyseda năm
nay ba mươi hai tuổi, chắc chắn đã lập gia đình, không biết vợ cậu ấy là người
như thế nào? Tôi ngắm nhìn mọi thứ xung quanh khi ngồi chờ ở phòng khách. Phủ
quốc sư đã thay đổi rất nhiều so với hồi Kumarayana còn sống. Cách bài trí rất
trang nhã, không quá cầu kỳ nhưng tinh tế, tỉ mỉ, cho thấy sự hiện diện rất rõ
ràng của bàn tay phụ nữ. Bầu không khí thẫm đẫm sắc màu Phật giáo trong phủ
quốc sư trước kia, này chỉ còn lại bức tượng Phật đặt trên bàn thờ ở một góc
khuất trong gian phòng.
Linh
cảm có ai đó ở phía sau, tôi quay người lại, một cô gái người Hán, dáng người
dong dỏng, thân hình thon thả, dung mạo không quá mỹ miều, nhưng đôi mắt cô ấy
to và trong sáng, ở cô ấy toát lên nét dịu dàng, đoan trang. Thấy tôi, cô gái
khẽ cúi chào, đôi mắt lướt trên người tôi, có vẻ như đang phỏng đoán mục đích
của chuyến viếng thăm này. Tôi nghĩ có lẽ cô ấy là vợ Pusyseda, vội vàng đáp lễ
bằng tiếng Hán:
–
Mong phu nhân lượng thứ cho sự đường đột của tôi. Tôi tới đây để nhờ đại nhân
giúp gặp mặt pháp sư Kuramajiva.
Tôi
nói ngay ý định của mình để xua tan mối nghi ngờ có thể nảy sinh trong lòng cô
gái ấy, vì biết đâu cô ấy lại cho rằng, người tình của Pusyseda đến bắt vạ thì
sao.
Cô
gái hơi ngỡ ngàng:
– Huynh
ấy hiện đang ở chỗ tướng quân Lữ Quang, cô nương gặp huynh ấy có việc gì vậy?
– Vì
một mối ân tình.
Tôi đáp
một cách mơ hồ:
– Nhờ
phu nhân nhắn giúp với đại nhân, rằng Ngải Tình đã về.
– Ngải
Tình ư?
Cô
ấy nhắc lại tên tôi và như đang tìm kiếm điều gì đó, sau đó thì có vẻ giật
mình, nhìn tôi trân trân.
– Thì ra
cô nương chính là cô gái sống trong căn phòng đó?
Tôi
ngẩn ngơ, căn phòng của tôi, vẫn được lưu giữ ư?…
– Xin phu
nhân đừng hiểu lầm, căn phòng đó là do pháp sư sắp xếp cho tôi, không liên quan
đến Pusyseda.
– Tôi
hiểu chứ. Mỗi lần về nhà, huynh ấy lại đến phòng cô nương ngồi thiền rất lâu.
Cô
ấy mỉm cười:
– Thật
không ngờ, cô nương lại trẻ trung như thế!
Tôi
gượng cười, thực ra tuổi của tôi, ở thời đại này đã là bà mẹ của mấy nhóc tỳ
rồi ấy chứ. Chỉ là, 1650 năm về trước, thời đại mà tuổi thọ bình quân của con
người chưa đến năm mươi tuổi và ngành công nghệ mỹ phẩm chưa phát triển, thì
ngoại hình của tôi chẳng khác nào thiếu nữ mười bảy, mười tám tuổi.
Cô
ấy sai người hầu vào cung nhắn gọi Pusyseda. Sau đó mời tôi ngồi, lời nói, cử
chỉ đều rất nhã nhặn, từ tốn. Không thể không khen ngợi Pusyseda đã chọn được
một người vợ tuyệt vời.
Một
vài cái đầu bé con lấp ló ngoài cửa, những con mắt tròn to, lấp lánh, chăm chú
nhìn tôi. Cô gái cất tiếng gọi, một chú nhóc mập mạp dắt theo một cô nhóc nhỏ
hơn khật khưỡng chạy vào..
Những
đứa bé mới đáng yêu làm sao! Chú nhóc là anh, cô nhóc là em, một bé năm tuổi
một bé ba tuổi. Cả hai nhóc đều có tên bằng tiếng Tochari, nhưng Pusyseda còn
đặt tên tiếng Hán cho chúng nữa. Anh tên Cầu Tư, em tên Vịnh Tư.
– Tướng
công nhà tôi say mê “Kinh thi”, nên đã dựa vào bài “Hán Quảng” trong “Kinh thi”
để đặt tên cho các con.
Khuôn
mặt cô gái ửng hồng, nụ cười ý nhị nở trên khóe môi, dường như đang nhớ lại một
kỷ niệm đẹp đẽ nào đó.
Tôi
ngỡ ngàng. Bài thơ trữ tình, lay động tâm can. Chàng trai nọ theo đuổi cô gái
người Hán bên
dòng sông Hán, sông Hán rộng lớn, nước chảy xiết, muốn bơi sang bờ bên cạnh là
điều không thể, bè gỗ cũng không thể đưa chàng trai đến bên cô gái. Theo đuổi
không thành, cô gái đi lấy người khác, chàng trai vẫn ngày ngày cặm cụi cắt cỏ
chăn ngựa giúp cô gái.
“Núi
nam có cây trụi cao,
Mọi
người chẳng thể tựa vào nghỉ ngơi.
Các
cô sông Hán dạo chơi,
Đoan
trang chẳng thể trao lời cầu mong.
Kìa
con sông Hán mênh mông,
Chớ
toan lặn lội mà hòng vượt qua.
Trường
giang mờ mịt chảy xa,
Kết
bè chẳng thể dùng mà lướt đi.
Bụi
cây lộn xộn đẹp xinh,
Tôi
lo cắt loại cây kinh mà dùng.
Nếu
nàng nay đã theo chồng,
Xin
nuôi giùm ngựa cho lòng đẹp vui.
Rộng
thay sông Hán cách vời!
Chớ
toan lặn lội vượt khơi mà hòng.
Trường
giang xa tít muôn trùng,
Thả
bè chẳng thể xuôi dòng mà đi.
Bụi
cây lộn xộn đẹp cao,
Thì
ta vội cắt cây lâu mà dùng.
Nếu
nàng nay đã thao chồng,
Ngựa
câu nuôi giúp thì lòng cũng cam.
Rộng
thay sông Hán xa xăm!
Cho
nên không thể lặn ngầm mà qua.
Trường
giang mờ mịt chảy xa,
Kết
bè chẳng thế dùng mà lướt đi”[25]
Là
ai đang thương ai đang nhớ ai?
Tôi
ôm những đứa trẻ bụ bẫm vào lòng, ngắm nhìn đôi mắt màu xám nhạt thừa hưởng từ
người cha của chúng. Giây phút ấy, tôi như được thấy lại Pusyseda hồi nhỏ, thấy
lại chú nhóc hay nhõng nhẽo bày trò, nũng nịu đòi tôi hát cho nghe ấy. Mới đấy
mà đã hai mươi năm. Chú nhóc năm nào giờ đây đã có con bồng con bế. Trước khi tôi
ra đi, cậu ta nói sẽ hạnh phúc và bây giờ, hạnh phúc ấy hiện rõ ở người vợ nhu
mì, hiền thục và những đứa con đáng yêu này đây.
Tiếng
bước chân dồn đạp ngoài cửa, một bóng dáng cao lớn xuất hiện, tay vịn vào khung
cửa, nhìn tôi ngỡ ngàng:
–
Ngải Tình, là chị thật ư…?
Tôi
đứng lên, mỉm cười, nhưng sao sống mũi cay cay.
Cậu
ta đi như lao về phía tôi, cứ cái đà ấy, với sự hiểu biết của tôi về cậu ta thì
chắc là định bước tới ôm lấy tôi. Tôi bối rối vì vợ cậu ta đang đứng bên cạnh.
May mà mấy đứa nhóc đã cứu nguy cho tôi. Chúng lon ton chạy đến, sà vào lòng
cha, chặn vòng tay đang dang rộng về phía tôi lại.
Vợ
cậu ta cũng đứng lên, nụ cười ngọt ngào, nhìn những đứa trẻ cuộn tròn trong
lòng Pusyseda. Rồi cô ấy bước đến, kéo lũ trẻ ra, nhẹ nhàng nói với chồng:
–
Để thiếp đưa các con đi tắm, chúng nô đùa cả ngày, bụi bám đầy người rồi.
Rồi
quay lại gật đầu với tôi:
–
Cô Ngải Tình ngồi chơi, tôi xin phép.
Cảm
tình với cô gái lại tăng thêm một bậc nữa. Quả là một phụ nữ hiểu biết. Chả trách,
cô ấy đã khiến “lãng tử” Pusyseda quay
đầu.
Khi
chỉ còn lại hai chúng tôi, tôi dành chút thời gian quan sát thật kỹ Pusyseda
của mười năm sau. Cậu ta vạm vỡ hơn trước, cũng học theo các nam giới Khâu Từ
khác để râu, những nếp nhăn hằn trên khóe mắt, khi cười càng lộ rõ vẻ từng trải
và dấu ấn năm tháng. Sức lôi cuốn của vẻ đẹp nam tính tỏa ra triệt để.
–
Già rồi.
Cậu
ta cười, chiêu bài rướn mày, nháy mắt năm nào đang được diễn lại:
–
Ai mà trẻ mãi không già như chị chứ!
–
Không hề già. Cậu đang ở vào độ tuổi hấp dẫn nhất của người đàn ông đấy.
Tôi
cũng cười, thật vui khi được thấy cậu ta hạnh phúc.
–
Vẫn còn đeo ư, tức là chưa quên tôi, nhỉ?
Giọng
nói có chút nghẹn ngào, cậu ta cúi đầu hít một hơi, rồi lại ngẩng lên cười.
Tôi
ngơ ngác, thấy cậu ta nhìn chăm chăm vào cổ mình mới phát hiện ra là cậu ta
đang nói về miếng ngọc bội. Cậu ta cũng vẫn đeo, nhưng sợi dây đã sờn bạc, biến
thành màu đen từ khi nào. Tôi muốn nói một câu gì đó, nhưng sợ cất lời thì nước
mắt lại trào ra. Pusyseda đưa tay ra kéo tôi vào lòng. Tôi vùng vẫy, nhưng
giọng nói khẽ khàng trên đỉnh đầu đã ngăn tôi lại:
–
Yên nào, để tôi ôm một lát. Tôi biết chị quay về không phải vì tôi, tôi chỉ
muốn ôm chị một lát thôi.
Tôi
không khỏi xúc động, nước mắt lăn dài, ngoan ngoãn trong vòng tay Pusyseda.
Nhưng không muốn kéo dài, sợ có ai bắt gặp, tôi lặng lẽ lau nước mắt, lên
tiếng:
–
Cậu chọn vợ khéo lắm!
Cậu
ấy buông tôi ra, quay mặt đi, đưa tay lên thấm nước mắt.
–
Mấy năm trước theo cậu út đi Trường An cống nạp, tôi đã cứu Hiểu Huyên. Cô ấy
vốn là con nhà trâm anh thế phiệt, nhưng gặp thời loạn, phải ca hát để kiếm
sống.
Nụ
cười ấm áp nở trên môi.
–
Một cô gái yếu đuối nhưng luôn mỉm cười đối diện với hoàn cảnh nghiệt ngã,
khiến tôi nhớ đến sự kiên cường của chị. Cô ấy có đôi mắt rất giống chị.
Tôi
hít một hơi, lấy lại sự bình tĩnh.
–
Hãy yêu thương cô ấy và hai đứa trẻ!
Cậu
ta gật đầu.
–
Họ là những người mà dù cho có phải đánh đổi cả tính mạng tôi cũng quyết phải
bảo vệ đến cùng.
Chợt
nhớ ra chuyện mà tôi quan tâm nhất.
–
Rajiva… bây giờ sao rồi?
–
Chị về đây để cứu huynh ấy phải không?
Cậu
ta khẽ thở dài, sắc mặt trở nên rầu rĩ.
–
Có điều, không kịp nữa rồi…
Tôi
bàng hoàng, mặt đất như đang xoay chuyển, cậu ta vội đỡ lấy tôi. Tôi chao đảo,
túm chặt tay áo Pusyseda:
–
Cậu ấy… cậu ấy phá giới rồi ư?
–
Sao chị biết Lữ Quang ép huynh ấy phải phá giới? Mà cũng phải thôi, chị là tiên
nữ cơ mà, chuyện gì cũng biết cả.
–
Cậu ấy… cậu ấy và Aksayamati…
–
Vẫn chưa.
Cậu
ta đỡ tôi ngồi xuống.
–
Nhưng chắc là sắp rồi, vì đã ba ngày…
Tôi
lại nắm chặt tay áo Pusyseda, cậu ta vỗ nhẹ vào vai tôi, ra hiệu cho tôi không
nên nóng vội.
–
Lữ Quang nghe danh anh tôi đã lâu, nhưng không tin huynh ấy một lòng hướng
Phật, ông ta muốn hạ nhục huynh ấy. Lữ Quang đánh cược với bộ tướng của ông ta,
nếu trong ba ngày mà huynh ấy phá giới, thì toàn bộ mấy trăm phi tử của đời vua
trước sẽ thuộc về ông ta. Nếu ngược lại, sẽ được chia cho các tướng lĩnh.
Tôi
sững sờ, sử sách không hề ghi chép điều này. Thì ra Lữ Quang ép Rajiva phá giới
vì một vụ cá cược tranh giành phụ nữ ư? Một người mà danh tiếng lừng lẫy suốt
ba mươi năm như Rajiva lại phải chịu mối ô nhục này ư?
–
Huynh ấy đã kháng cự suốt hai ngày qua. Nhưng hôm nay là ngày cuối cùng, nghe
nói Lữ Quang đã sai người cởi bỏ quần áo của cả hai người. Tôi vừa từ trong
cung về, theo những gì tôi nghe ngóng được thì huynh ấy vẫn đang chống cự quyết
liệt. Tôi chưa bao giờ khâm phục anh trai mình đến thế! Bị o bế như vậy mà
huynh ấy vẫn kiên định. Có lẽ chỉ có huynh ấy mới làm được như vậy! Nhưng mà…
Cậu
ta ngập ngừng, rồi thở dài:
–
Nếu huynh ấy vẫn cố chấp, Lữ Quang sẽ cho người chuốc rượu. Lữ Quang đã nói là
làm, nếu đêm nay huynh ấy không chịu phá giới, khiến ông ta bị thua trong cuộc
cá cược này, chỉ e… sau này sẽ phải chịu sự đối xử tàn tệ hơn nữa.
Tôi
bật dậy, kéo tay cậu ta:
–
Pusyseda, hãy cứu cậu ấy…
–
Ngải Tình, tin tôi đi, ba ngày qua tôi đã nghĩ đủ mọi cách để cứu huynh ấy. Tôi
đi cầu xin Lữ Quang, cầu xin đức vua, tôi đã dùng tiền, dùng phụ nữ để mua
chuộc đám con trai và bộ tướng thân cận của Lữ Quang, nhưng đều vô ích. Nếu là
mấy năm trước, tôi sẽ vác gươm xông vào cứu huynh ấy, rồi đưa huynh ấy trốn đến
nơi khác.
Cậu
ấy buồn rầu lắc đầu, đưa mắt nhìn ngôi nhà.
–
Nhưng bây giờ, tôi không thể không nghĩ đến vợ và các con mình.
–
Vậy hãy đưa tôi đến gặp Lữ Quang.
–
Vô ích thôi, Lữ Quang là kẻ bảo thủ cố chấp, bao nhiêu người khuyên can, chỉ
càng thêm kích động ông ta. Chị chỉ là một cô gái bình thường, làm sao ông ta
chịu nghe lời chị.
–
Vậy thì…
Tôi
hít một hơi thật sâu.
–
Hãy tráo đổi tôi với Aksayamati.
Cậu
ta đưa tạy khẽ gạt những sợi tóc lòa xòa trên trán tôi.
–
Ngải Tình, có lẽ đây là cách duy nhất để cứu huynh ấy.
Tôi
và Pusyseda vừa bước ra khỏi phòng khách thì gặp Hiểu Huyên từ dưới bếp đi lên,
thấy chúng tôi vội vội vàng vàng lao ra cửa, cô ấy gọi với:
–
Tướng công, đã đến giờ ăn tối, mọi người dùng bữa xong hẵng đi. Mà, cô Ngải
Tình cũng phải thay y phục chứ.
Tôi
bỗng nhớ ra là mình vừa leo lên từ hố chôn người, quần áo dính đầy vết máu và
mùi hôi hám, cứ thế này mà đi gặp Lữ Quang e không tiện. Hiểu Huyên đưa tôi vào
phòng, quần áo mới đã được chuẩn bị và đặt sẵn ở đầu giường. Tôi cởi bỏ chiếc
áo chống tia phóng xạ, khoác lên người trang phục cô ấy chuẩn bị cho mình, đó
là một bộ Hán phục màu sắc trang nhã, rất thoải mái. Hiểu Huyên quả là người
khéo léo, hoạt bát và tinh tế hơn tôi rất nhiều.
Tôi
không muốn tiêu tốn thời gian, nên chỉ ăn qua loa rồi giục Pusyseda lên đường.
Cậu ta dặn dò vợ đôi câu rồi cùng tôi vào cung. Từ khi chiếm được thành Khâu
Từ, Lữ Quang đã ở luôn trong cung, ông ta chia cho vị vua Bạch Chấn một nửa
cung điện.
Để
gặp được Lữ Quang, chúng tôi đã tốn không ít thời gian. May mà Pusyseda là thân
tín của Bạch Chấn, nên không kẻ nào dám gây khó dễ. Trong khi chờ đợi để được
vào gặp Lữ Quang, Pusyseda tranh thủ dò la thông tin từ tai mắt của cậu ở trong
cung và được biết rằng Rajiva đã bị chuốc rượu, nhưng vẫn kiên trì kháng cự.
Pusyseda
nhìn tôi, vẻ mặt nghiêm trọng:
–
Ngải Tình, lát nữa gặp Lữ Quang, chị đừng nói gì cả. Ông ta là kẻ thô bạo nóng
nảy, không biết nương tay bao giờ, chỉ có thể thuận theo ý ông ta, nếu chống
lại thì dù là thân tín, ông ta cũng sẵn sàng trừ khử.
Cậu
ta thở dài thườn thượt:
–
Anh trai tôi gặp phải ông ta đúng là gặp phải kiếp nạn!
Thư Cử
Mông Tốn, kẻ đã giết Đoàn Nghiệp và tự lập mình làm vua Bắc Lương đã đánh giá
Lữ Quang là kẻ “mê
muội, tin lời gièm pha của kẻ xấu”. Vừa nghe cháu trai nói rằng “người
Hà Tây chỉ biết đến Đỗ Tấn mà không hay Lữ Quang là ai”, ông ta đã thẳng tay
giết Đỗ Tấn, một tướng lĩnh đắc lực, một công thần. Trong chuyện chọn người kế
vị, Lữ Quang cũng có những quyết định hết sức hoang đường, khiến nhà Hậu Lương
chỉ trong vài năm ngắn ngủi sau khi ông ta qua đời đã phải thay đến ba đời vua
và sau cùng đã để mất nước. Bởi vậy, ảo tưởng có thể thuyết phục Lữ Quang từ bỏ
việc hành hạ Rajiva của tôi tan vỡ sau câu nói của Pusyseda. Muốn ông ta từ bỏ
ý định hạ nhục Rajiva, e là tôi sẽ phải đánh đổi cả tính mạng của mình. Đối với
một kẻ chẳng hề tín Phật như Lữ Quang, từ bỏ không chỉ đơn giản là việc sẽ mất
đi phần thưởng béo bở kia, mà quan trọng hơn là ông ta sẽ mất đi thể diện.
Sau
nhiều lần thông báo, khi đêm đen đã bao trùm, chúng tôi mới được xuất hiện
trước mặt Lữ Quang.
Con
người đã thay đổi cuộc đời của Rajiva ấy đang ngồi xem báo cáo về tình hình
quân sự trong đại điện, bên cạnh là bốn thanh niên chừng hai mươi tuổi, tướng
mạo khá giống Lữ Quang. Tôi đoán họ chính là đám con cháu bất nghĩa đã chém
giết lẫn nhau để tranh cướp ngôi vị sau khi Lữ Quang chết. Tuy là người tộc Đê,
nhưng tướng mạo của ông ta lại rất giống những người Hán thô kệch sống ở phương
bắc. Thời điểm này, ông ta bốn mươi bảy tuổi, đỉnh đầu trơ bóng, phần tóc ít ỏi
còn lại được quấn buộc và búi tó sau gáy, râu ria mọc lởm chởm, hai hàng lông
mày xếch ngược, dữ tợn. Nhác thấy Pusyseda, ông ta lấy giọng khách sáo mời
ngồi.
Pusyseda
cúi lạy, rồi nói với ông ta bằng tiếng Hán:
–
Anh tôi tính tình bảo thủ, không hiểu ý tốt của tướng quân, đã khiến tướng quân
phải khó xử.
Lữ
Quang chỉ nhếch mép cười, ánh mắt lộ vẻ nham hiểm:
–
Pháp sư kiên cường như vậy thật khiến người ta phải khâm phục. Xem ra, ta đã
đánh giá thấp pháp sư rồi!
Pusyseda
ngẩng đầu, thận trọng nói:
–
Hôm nay tôi đến là để giúp tướng quân giành thắng lợi trong cuộc cá cược này.
Lữ
Quang nheo mày.
–
Không biết quốc sư có cao kiến gì?
Tôi
nheo mày, tôi có thể nhận ra cuộc sống đủ đầy của Pusyseda những năm qua, nhưng
không thể ngờ cậu ấy lại kế tục chức vị của cha mình ngày trước, trở thành quốc
sư của Bạch Chấn.
–
Xin tướng quân hãy tráo đổi cô gái này với em họ Aksayamati của tôi.
Lữ
Quang đưa mắt về phía tôi, thoáng chút kinh ngạc:
–
Xin quốc sư nói rõ cho ta biết, cô gái người Hán này có điểm gì hơn công chúa
Aksayamati kiều diễm, mà có thể khiến pháp sư siêu lòng?
–
Tướng quân không biết đó thôi, có rất nhiều uẩn khúc trong chuyện này.
Pusyseda
ngừng lại một lát, nhìn Lữ Quang với vẻ tự tin đắc thắng, tiếp tục nói:
–
Người cô của cô gái này năm xưa từng dạy anh tôi tiếng Hán, vốn đã có tình cảm
sâu nặng với anh tôi, nhưng vì thân phận tăng sĩ của anh ấy, đành gạt nước mắt
đi lấy người khác. Nhưng hơn mười năm qua, anh tôi vẫn không nguôi thương nhớ.
Tuy thờ Phật, nhưng dù sao anh ấy cũng là con người, cũng biết yêu biết hận,
chỉ là, người ngoài không hiểu mà thôi. Cô gái này giống hệt người con gái năm
xưa, tôi tin rằng, chỉ cần nhìn thấy cô ấy, anh tôi sẽ không trái ý tướng quân
nữa. Em họ Aksayamati của tôi tuổi còn quá nhỏ, lại không thân thiết với anh
trai tồi. Tướng quân hãy tráo đổi Aksayamati với cô gái này, chắc chắn sẽ thành
công.
Lữ
Quang chừng như sắp xuôi, Pusyseda lại tiếp tục:
–
Tướng quân chỉ cần anh tôi chịu phá giới, còn việc với ai, đâu có quan trọng
gì, đúng không?
Lữ
Quang liếc nhìn tôi thêm vài lần nữa, dò xét, rồi bất giác cười vang:
–
Cũng phải, phụ nữ Khâu Từ cao lớn đẫy đà, chưa chắc đã khiến pháp sư động lòng
bằng cô gái người Hán nhỏ nhắn xinh tươi như hoa như ngọc này.
Rồi
ông ta quay sang người có vẻ nhiều tuổi nhất đứng bên cạnh:
–
Soạn nhi, đưa quốc sư và cô gái này đến chỗ pháp sư.
Anh
ta là Lữ Soạn ư? Tôi liếc trộm anh ta, cũng là một bộ mặt thô kệch đáng sợ. Đó
là người con lớn của Lữ Quang, tính tình tàn ác, thích ăn chơi hưởng lạc. Sau
khi Lữ Quang qua đời, Lữ Soạn tự lập mình làm vua, ép em trai là Lữ Thiệu phải
chết. Nhưng đáng tiếc, chưa đầy vài tháng, Lữ Soạn đã bị cháu trai của Lữ Quang
là Lữ Siêu giết chết.
Lữ
Quang nở một nụ cười nham hiểm, dặn dò con trai:
– Nhớ
quay lại báo cáo!
Rồi
quay sang nói với Pusyseda:
– Quốc
sư đừng để ta phải thất vọng đấy!