Mật Mã Tây Tạng

Chương 53: Một đám thương binh



Trác Mộc Cường Ba thích ứng với hoàn cảnh xung quanh, nhanh chóng nhận ra đây là bệnh viện, tường màu trắng, giường màu trắng, quần áo mặc trên người cũng đổi sang đồ màu xanh trắng. Lữ Cánh Nam cũng mặc đồ y như vậy, hình như từ đầu chí cuối vẫn ở bên giường của gã. Giường bệnh của Trương Lập ở phía sau lưng Lữ Cánh Nam, một tay anh ta bị treo lên, bó đầy thạch cao.

“Mẫn Mẫn đâu?”

Lữ Cánh Nam đưa mắt nhìn sang tay phải Trác Mộc Cường Ba. Trong một thoáng, bất giác gã nhận thấy mắt cô đỏ lựng lên. Trác Mộc Cường Ba ngoảnh đầu sang phải, liền thấy ngay Đường Mẫn. Cô đang nằm lặng yên tựa như nàng công chúa Bạch Tuyết. Hai chiếc giường được xếp cạnh nhau, hai bàn tay vẫn nắm chặt nhau, vậy mà Trác Mộc Cường Ba lại không có cảm giác gì. Máy theo dõi của hai người đặt bên cạnh hai chiếc giường. Lữ Cánh Nam nói: “Hai người lúc hôn mê vẫn nắm chặt tay nhau, tách thế nào cũng không tách được, hết cách, họ đành kê giường sát vào với nhau.” Phía sau Đường Mẫn là Nhạc Dương, cũng bị treo cánh tay lên. Trác Mộc Cường Ba muốn ngẩng đầu, Lữ Cánh Nam liền giúp gã một tay, phía bên kia phòng bệnh là giáo sư Phương Tân, Ba Tang và lạt ma Á La đang nằm, ngoài ra còn một giường trống dành cho Lữ Cánh Nam. Xem ra lần này thu hoạch không tệ chút nào, tất cả đều “trúng số” cả.

Bác sĩ mau chóng bước vào, một bác sĩ khoảng chừng năm mươi tuổi dẫn theo ba bốn người khác trẻ hơn. Cả bác sĩ Cát cũng có mặt.

Bác sĩ Cát giới thiệu: “Đây là chủ nhiệm khoa ngoại bệnh viện chúng tôi, đồng thời cũng là thầy giáo tôi, giáo sư Bùi Vũ Khánh.”

Giáo sư Bùi kiểm tra một lượt rồi nói: “Lần này hai người không chết đúng là kỳ tích. Mặc dù cậu học trò này của tôi có hơi làm bừa, nhưng may là cậu ta cược thắng, nếu thể chất yếu hơn một chút thôi, hai người đều chết là cái chắc rồi.”

Trên thực tế, trước đó giáo sư Bùi đã nói riêng với học trò của mình không biết bao nhiêu lần: “Hai người này sống được tuyệt đối là một kỳ tích. Có lẽ, à không, nhất định là có thứ gì đó khiến họ không thể bỏ được chấp niệm, mới có thể cầm cự để sống tiếp. Hai người đều mất trên một phần ba lượng máu trong cơ thể, đặc biệt là người đàn ông kia, anh ta gần như đã truyền một nửa lượng máu của mình vào cơ thể cô gái rồi, gần như là lấy mạng đổi mạng, như vậy mà không chết, thật không thể nào tin nổi, thật không thể nào tin nổi!”

Theo cách nói của các bác sĩ, cả đám người này ít nhất có năm người cần vào phòng giám sát bệnh nhân nặng để quan sát hai tư trên hai tư, nhưng những người tỉnh táo đều nhất trí yêu cầu được ở chung một phòng bệnh. Kết quả là gian phòng lớn này gần như đã bị cải tạo thành phòng giám sát bệnh nhân nặng mới luôn.

Trác Mộc Cường Ba và Đường Mẫn nắm tay nhau bò trở về từ lằn ranh sinh tử, tất nhiên là không cần phải nói. Sau đó là đến Lữ Cánh Nam, nhìn bề ngoài thì không sao, nhưng toàn thân đều bị tổn thương các tổ chức mềm, sáu bảy dây chằng bị đứt, tụ máu dưới da trên diện rộng, nhiều chỗ xương cốt lệch vị trí đã bị ép đẩy lại, suýt chút nữa là hình thành viêm mô mỡ, mỗi vết thương trên người đều đủ đau đớn đến ngất đi, thậm chí có những vết thương có thể trực tiếp dẫn đến tử vong. Các bác sĩ trông thấy những vết thương trên mình Lữ Cánh Nam mà kinh hoảng, tất cả đều không biết cô gái này đã làm thế nào để chịu đựng được. Lúc làm phẫu thuật đã cho cô hít vào một lượng htuocos mê rất lớn, đến cả voi cũng phải hôn mê hoàn toàn, vậy mà Lữ Cánh Nam vẫn giữ được tỉnh táo. Các bác sĩ phải ngầm thừa nhận với nhau rằng thần kinh và xương cốt của người đàn bà này đều rèn bằng thép cả. Các tổ chức mềm của Lữ Cánh Nam và lạt ma Á La là tổn thương nhiều nhất, cũng nghiêm trọng nhất, nhưng xương cốt hai người thì ngay cả một vết rạn nhỏ cũng không có, so với sắt thép cũng không ngoa. Xem phim chụp X- quang của cô, tất cả đều mắt tròn mắt dẹt há hốc mồm ra, không hiểu rốt cuộc thế nào mới luyện được cho mật độ xương cao đến mức ấy đây! Đặc biệt là Lữ Cánh Nam, phẫu thuật xong hôm thứ hai đã xuống giường đi lại, cầm điện thoại không ngừng liên lạc, không ngừng sắp xếp nọ kia, tác phong “nữ cường nhân” sấm rung chớp giật chẳng khác gì bà chủ của doanh nghiệp lớn. Trong bệnh viện có người đàn bà thép, danh hiệu này đã dần được các bác sĩ truyền miệng khắp, ai cũng biết cả rồi.

Lạt ma Á La và giáo sư Phương Tân tuổi tác đều cao, người già bị thương nặng như vậy, không chết đã là kỳ tích lắm rồi, nhưng lúc đến bệnh viện hai người vẫn dồi dào sinh khí, tinh thần quắc thước, lại khiến các bác sĩ thêm một mẻ ngạc nhiên đến rơi cả kính, chỉ biết nghĩ đến câu “gừng càng già càng cay”!

Ba người Trương Lập, Nhạc Dương và Ba Tang trông thì có vẻ bị thương rất nặng, nhưng ngoài gãy xương và bị trúng đạn ra, những vết thương khác đều không vấn đề gì lắm, thêm vào tuổi tác vẫn còn trẻ, chắc rằng sẽ hồi phục rất nhanh, càng về sau càng đỡ hơn. Vừa ra khỏi phòng phẫu thuật, Trương Lập như sực nhớ ra chuyện gì đó, câu đầu tiên đã hỏi ngay: “Lần khảo hạch này chúng tôi đã qua cửa chưa? Giáo quan?”

Lữ Cánh Nam nằm trên giường, ngước mắt nhìn trần nhà nói: “Ừm, coi như qua rồi.”

Trương Lập cũng tự thấy tức cười: “Suýt chút nữa là chết cả nút rồi, vậy cũng coi là qua cửa à?”

Lữ Cánh Nam tựa hồ đang chìm trong hồi ức, không nói gì thêm nữa.

Thực ra, lần này mỗi thành viên trong nhóm đều mang đến cho các bác sĩ một sự ngạc nhiên không nhỏ, đặc biệt là bao nhiêu người cùng bị thương một lúc như thế, nếu không phải hỏi hang biết được một số chuyện, các bác sĩ thật sự đã ngỡ rằng bọn họ cùng rủ nhau nhảy từ tầng năm xuống đất rồi, đến cả ẩu đả tập thể cũng không thể gây ra thương tích nghiêm trọng như thế được, phải nói là một đám liều mạng mới đúng.

Sau khi hỏi lại, Trác Mộc Cường Ba biết ra gã và Đường Mẫn hôn mê năm ngày rồi, giờ đều đã qua giai đoạn nguy hiểm. Ban đầu họ được cấp cứu ở bệnh viện huyện Trát Đạt, rồi ngay sau đó tranh thủ từng phút từng giây một đưa tới bệnh viện này, cuối cùng cũng giữ được tính mạng. Bạn đang đọc truyện được lấy tại chấm cơm.

Đường Mẫn trước đó đã tỉnh một lần, giờ đã lại ngủ thiếp đi. Đội trưởng Hồ Dương có đến thăm mấy lần, để lại rất nhiều hoa quả và đồ tẩm bổ, vì còn nhiều việc riêng, nên chắc muộn hơn anh mới trở lại được. Vừa quay lại bệnh viện, Hồ Dương liền giận dữ xổ cho Trác Mộc Cường Ba vừa mới tỉnh lại sau cơn hôn mê kéo dài một trận, nói Trác Mộc Cường Ba không ra gì, rằng cả bọn làm ra chuyện lớn như thế mà lại không nói với anh một lời. Trương Lập chỉ biết cười khổ giải thích giúp Cường Ba thiếu gia, nói khi ấy bọn họ cũng chẳng hề biết đó là nơi nào, lại càng không hề biết chuyện gì liên quan đến Bạc Ba la thần miếu, lại càng không thể ngờ sẽ lập thành một đội được huấn luyện đặc biệt để tìm kiếm, mà khi ấy lại cảm thấy hy vọng tìm được con chó đó chỉ như hạt cát giữa sa mạc, sao có thể đem chuyện chẳng đâu vào đâu ấy nói ra được cơ chứ. Về sau tham gia đội huấn luyện đặc biệt, từ đầu chí cuối đều là tiến hành tập huấn bí mật, đâu có liên hệ gì với thế giới bên ngoài.

Nghe đồn lúc họ mới nhập viện còn có cả phóng viên đến nữa. Trác Mộc Cường Ba hỏi tại sao không ngăn lại, Nhạc Dương cười gượng bảo với gã, lúc đó mọi người đều đang đẩy xe hay khiêng cáng, ai cản lại được chứ. Giới truyền thông vốn rất thính mũi, dù sao cũng có bao nhiêu người bị thương không rõ nguyên nhân như thế kia mà, nhưng chuyện này giáo quan đã phản ảnh lên cấp trên rồi, đến hôm sau là không còn phóng viên gì đến điều tra thâm nhập nữa.

Sau khi họ rời khỏi khe vực dưới lòng đất, nghe đâu đã xảy ra sự cố địa chấn, hai bên thông đạo đều sập hết, ước tính muốn dọn sạch đường vào khe vực ấy cũng phải tốn thời gian một năm, không biết tên Ben và đồng bọn đã rời khỏi đó chưa. Điều làm các thành viên phấn chấn nhất là họ đã tìm thấy hai tấm bản đồ!

Lạt ma Á La cướp được trong tay Ben một tấm, trong cái hộp sắt giáo sư Phương Tân lấy được ở gian thạch thất cuối cùng có một tấm khác. Sau khi so sánh, các chuyên gia đưa ra kết luận, hai tấm bản đồ này cùng một chất liệu, là sản phẩm của cùng một thời kỳ, thậm chí có chuyên gia còn nói rõ rằng, hai tấm bản đồ này được vẽ trên cùng một tấm da sói, sau đó mới cắt ra làm đôi. Nhưng nội dung bản đồ thì lại hoàn toàn khác nhau.

Cả hai tấm bản đồ đều được ghi lại trong máy tính của giáo sư Phương Tân. Hôm thứ hai sau khi Trác Mộc Cường Ba tỉnh lại, giáo sư liền đưa cho gã xem. Đây chính là thứ họ giành được sau hành động đem cả tính mạng mình ra đặt cược. Tấm bản đồ thạt có vẽ hình thế mạch núi, xung quanh núi non vây bọc, có chú thích phương hướng. Có điều, ở Tây Tạng, những ngọn núi như thế quả thực quá nhiều, chỉ riêng mạch núi lớn đã có ba bốn cái rồi, đỉnh núi thì không đếm xuể, muốn tìm được phương vị chuẩn xác từ tấm bản đồ này, xem ra không phải chuyện một hai tháng mà giải quyết được. hai tấm bản đồ gốc đều giao cả cho nhóm chuyên gia để tiến hành giám định các thông tin ẩn tàng trong đó. Ngoài ra còn một nhóm người chuyên dùng vệ tinh để chụp ảnh núi non Tây Tạng sau đó tiến hành so sánh một trên một. Tuy nhiên Lữ Cánh Nam cũng lưu ý mọi người, với tốc độ so sánh như hiện nay, chắc cần phải một năm sau mới hoàn thành được.

Về tấm bản đồ giả kia, nói theo kiểu của Nhạc Dương thì là “làm giả cũng chẳng nên hồn, người ta vừa nhìn đã biết ngay là hàng giả rồi.” Tấm bản đồ ấy cùng một chất liệu với tấm bản đồ còn lại, chỉ là nội dung thì khác tấm kia một trời một vực. Giáo sư Phương Tân hình dung nó thế này: “Dù là bản đồ giao thông tường tận nhất của Bắc Kinh cũng không phức tạp bằng nó.”

Tấm bản đồ ấy quả giống như bản đồ thành phố Bắc Kinh vậy, vẽ từng vòng từng vòng thành kết cấu mạng nhện, chia làm vòng một, vòng hai, vòng ba, những vòng tròn đồng tâm bất quy tắc ấy tổng cộng có khoảng hơn trăm, những phần chi tiết không ngờ phải dùng đến kính lúp mới phân biệt được, còn những đường ngang dọc thì vươn ra mọi hướng. Nếu nói mỗi đoạn là một con đường nhỏ, vậy thì trên bản đồ này chắc phải vẽ đến cả hơn vạn con đường, hơn nữa mỗi đoạn lại dùng những màu sắc khác nhau để biểu thị, tổng cộng có năm màu đỏ, vàng, cam, xanh lam, xanh lục, bên cạnh một số ký hiệu tượng hình, nhìn cũng rất ra dáng bản đồ. Nhưng đừng nói là giáo sư Phương Tân và lạt ma Á La, đến cả đội trưởng Hồ Dương kiến đa thức quảng cũng chưa từng nhìn thấy bản đồ nào như thế bao giờ. Hồ Dương nói: “Bản đồ thời cổ đại không chi tiết như thời nay đâu, thường chỉ phản ánh mạch núi, dòng sông, đường sá, nơi cư dân tập trung, mặc dù tỉ lệ không thể đến mức tuyệt đối, nhưng ít nhất cũng khiến người ta nhìn là hiểu ngay. Cái thứ này của anh là cái gì đây? Một yếu tố mà bản đồ cần phải chú thích cũng chẳng có, nếu bảo đây là thông đạo, vậy những cái chấm này là gì? Có nơi nào có cả hơn trăm lối ra lối vào không? Anh nhìn đi, đây, đây, đây cả đây nữa, đâu đâu cũng là đường à? Cuối cùng thì thông đến đâu đây? Chỗ nào cũng chui qua được hết à? Thế thì bản đồ cái nước mẹ gì chứ?”

Về chuyện bản đồ này còn một vấn đề nữa, nghe kể lại là giáo sư Phương Tân và lạt ma Á La đã thảo luận chuyện này vô số lần rồi. Hai ấm bản đồ cùng một chất liệu và cùng một thời kỳ, nên có thể cho rằng một tấm đã bị nhà thám hiểm Stanley lấy trong địa cung của vương triều Cổ Cách từ hơn một trăm năm trước, nhưng tấm bản đồ mà lạt ma Á La lấy được lại là đoạt từ tay Ben. Mà Ben và đồng bọn thì chưa từng vào đường hầm bị nổ lộ ra đó, cũng có nghĩa là tấm bản đồ trong tay Ben được phát hiện bên trong tượng Phật khổng lồ hoặc trong Thiên Phật điện, khả năng thứ hai cao hơn một chút. Mà thông đạo nối giữa địa cung Cổ Cách với tượng Phật khổng lồ không thông hẳn, vì lựu đạn nổ nên mới lộ ra, vậy tấm bản đồ kia sao lại từ địa cung Cổ Cách vào trong tượng Phật khổng lồ được?

Giáo sư Phương Tân đưa ra hai giả thiết, thứ nhất là Stanley lấy được một tấm bản đồ trong địa cung Cổ Cách, sau đó lại tìm thấy lối vào khe ngầm dưới lòng đất, lùng sục toàn bộ tượng Phật khổng lồ, cuối cùng làm mất bản đồ trong Thiên Phật điện để Ben phát hiện ra được; giả thiết thứ hai là, bản đồ vốn được đặt trong đàn tế giữa Thiên Phật điện, về sau bị người ta lấy đi một tấm, rồi đặt trong địa cung của vương triều Cổ Cách, nhưng nếu thế thì tấm bản đồ Stanley đã tìm được lại từ đâu ra – điều này giáo sư không thể giải thích được, dù suy đoán thế nào cũng không thể giải thích được, dù suy đoán thế nào cũng thấy cực kỳ bất hợp lý.

Nơi hai tấm bản đồ xuất hiện có vẻ như chỉ cách nhau có một bức tường, nhưng lại cách đến cả mấy trăm năm, trong khi đó các chuyên gia lại cứ đưa ra kế luận rất có khả năng chúng được làm từ cùng một bộ da sói nữa. Tất cả đều thật khiến người ta khó hiểu.

Lúc Trác Mộc Cường Ba hôn mê, lạt ma Á La đã kể lại những chuyện ba người gặp phải cho mọi người, ai nấy đều cảm khái khôn nguôi với sự việc của Đa Cát, nói mặc dù tư tưởng anh ta hơi truyền thống bảo thủ, nhưng đích thực là một trang nam nhi người Tạng chính trực.

Nhưng Trác Mộc Cường Ba còn chưa biết, vào hôm thứ hai từ khi gã bắt đầu hôn mê, đã xảy ra một số chuyện khác nữa.

Hôm ấy, giáo sư Phương Tân và Ba Tang đi phẫu thuật, Lữ Cánh Nam thì bận lên bận xuống xử lý các sự việc liên quan, trong phòng bệnh ngoài Trác Mộc Cường Ba và Mẫn Mẫn đang hôn mê ra chỉ còn lại Nhạc Dương, Trương Lập và lạt ma Á La. Ba người bàn luận những chuyện xảy ra trong Đảo Huyền Không tự. Khi Nhạc Dương đắc ý khoe mình nhặt được trong đống xương cốt một cái thẻ bài nhỏ bằng đồng, lạt ma Á La liền lập tức nghiêm khắc ra lệnh cho anh chàng phải giao nộp tang vật, thứ đó cần phải trả về cho nhà nước. Nhạc Dương vừa lầm bầm lấy thẻ bài ra, hai mắt lạt ma Á La đã sáng bừng lên. Lạt ma nhảy phắt dậy, nhún chân một cái đã lên giường Nhạc Dương, chẳng hề có chút dáng vẻ tôn nghiêm của bậc đại sư nào cả.

Nhạc Dương còn đang ấp úng giải thích: “Tôi biết mấy thứ này đều phải trả cho nhà nước, tôi có nói là muốn giữ riêng đâu, chỉ là lấy chơi mấy ngày thôi mà…” thì lạt ma Á La đã giật lấy tấm thẻ bài, cầm trên tay ngắm nghía kỹ lưỡng, hai mắt sáng rực, hơi thở cũng trở nên gấp gáp. “Cậu có biết dây là cái gì không? Theo cậu thì giá trị của nó thế nào?” Đại sư bất thình lình hỏi, rồi nhìn chằm chằm vào Nhạc Dương. Ông nhìn lâu đến nỗi Nhạc Dương chột dạ, rồi mới giải thích: “Đây là một cái Ca ô vàng, cậu xem đây!”

Nói đoạn, ông liền cầm tấm “thẻ đồng” ấy lên ấn ấn hai cái, cũng không hiểu đã làm động tác gì, tấm thẻ đồng liền kêu “cách” một tiếng, mở bung ra, thì ra là một cái hộp đồng nhỏ. Kế đó, đại sư dùng ngón tay khẽ vê vê, không ngờ liền kéo ra được một mớ là vàng dài ba centimet, đầu đuôi nối liền nhau, xếp lại thành một thếp, trên mỗi lá đều có chạm trổ các loại tượng Phật khác nhau, tượng nào cũng được cả hình dáng lẫn thần thái, sống động như thật.

Nhạc Dương kêu lên: “Oa! Tôi cầm bao nhiêu ngày rồi mà không biết bên trong cái hộp này lại có cơ quan như thế đâu nhé!”

Lạt ma Á La nghiêm giọng nói: “Đây là hộp vàng. Cậu đừng coi thường cái Ca ô này, giờ cả đất Tây Tạng không tìm được đâu ra năm cái giống như thế đâu. Trong chế độ cũ, phải có thân phậm Kham Bố trở lên mới đủ tư cách đeo nó trên người đấy.” Nói tới đây, lạt ma Á La không khỏi ngẩn người ra thoáng chốc, trong bụng thậm nhủ: “Đây chỉ là thứ Nhạc Dương tiện tay nhặt được trong đống xương cốt đó mà tượng trưng cho thân phận địa vị này rồi, trong băng ghi hình có thể thấy số lượng các pháp khí trong đống xương tàn ấy phải tính bằng con số trăm, mỗi một thứ đều có thể xem như quốc bảo cả đó, trời ơi, thứ mà chúng đại diện, là một gian đoạn lịch sử đã biến mất. Có lẽ nào, núi xương cốt ấy, đều là những giáo đồ hạt nhân của Thánh giáo? Hỡi đức Ma Hê Thủ La vạn năng, tại sao, tại sao lại để tín đồ của Người phải chịu tai nạn khủng khiếp nhường ấy?”

Đại sư nhớ lại đến vô số Nhục thân Hoạt Phật đứng trước Thiên Phật điện. Những vị Phật sống ấy, nếu giờ mà xuất hiện trong bất cứ ngôi chùa nào ở bên ngoài, ngôi chùa ấy ắt sẽ lập tức trở thành pháp tự hoặc thậm chí là đại pháp tự, đó là Nhục thân Hoạt Phật cơ mà. Nhưng trong thánh luyện đường ấy, bên cạnh cánh cửa đó không ngờ lại có đến cả mấy trăm vị Nhục thân Hoạt Phật đang đứng xếp hàng, những vị ấy đều là bằng chứng rằng các tiền bối cao nhân trong Thánh giáo đã hóa mục nát thành thần kỳ, dù gặp phải cảnh hỗn loạn như vậy, cũng không người nào kinh động đến các vị Nhục thân Hoạt Phật ấy, vậy mà giờ đây…

Lạt ma Á La hồi tỉnh lại sau cơn bi thương, phát hiện ra nét mặt Nhạc Dương hơi có phần quái dị, liền lục vấn tiếp: “Cậu còn lấy thứ gì nữa? Mau giao ra đây.”

Nhạc Dương ấp úng nói: “Vốn còn một tấm sắt nhỏ nữa, nhưng lúc ở gian địa điện có mấy quả chùy, đã bị nam châm hút mất rồi.”

“Miếng sắt như thế nào?” Vẻ mặt lạt ma Á La lại trở nên hết sức nghiêm túc.

“Rất mỏng, bên trên có chữ thập.” “Không phải chữ thập, mà là chữ vạn, chắc là chữ vạn rồi.” “Ừm, bên trên có cái đầu thỏ, kiểu gì thì hai cái tai cũng dài lắm, giống như loài động vật gì đó.” “Hay là hướng nhìn của chúng ta không đúng, chắc là phải nhìn ngang nhỉ?” “Anh đừng có làm rối.” Nhạc Dương và Trương Lập khua tay múa chân, tả lại miếng sắt một cách tường tận.

Khi nghe Nhạc Dương nói đến cái đầu thỏ, lạt ma Á La đã hiểu là chuyện gì, nhưng ông vẫn ung dung thản nhiên hỏi: “Có lẽ là loại pháp khí nào đó chăng? Có rất nhiều điều mà chúng ta không hiểu về tôn giáo ấy, bao gồm cả thần Phật và pháp khí của họ nữa.”

Nhạc Dương lắc đầu: “Không, không giống như pháp khí. Tôi thấy những lá sắt đó bên cạnh rất nhiều bộ xương, hơn nữa còn cả các phù hiệu trên đó nữa, tôi có cảm giác những phù hiệu ấy không giống nhau.”

“Vậy theo cậu thì nó có thể là thứ gì?” lạt ma Á La hỏi.

Nhạc Dương đáp: “Nếu cứ bắt tôi nói, thì cảm giác của tôi là, những lá sắt ấy giống như thẻ bài đại diện cho thân phận vậy.

Lạt ma Á La đứng lên khỏi mép giường, lắc đầu nói: “không thể nào, theo tôi được biết, trong tôn giáo không cần những kiểu thẻ bài như thế, tôi nghiêng về hướng nó là pháp khí nhiều hơn, có rất nhiều tín đồ thành kính đều mang pháp khí theo bên mình, giống như cái Ca ô này vậy. Để tôi mang thứ này cho Lữ Cánh Nam xem trước, hai người để ý Cường Ba thiếu gia và cô Mẫn Mẫn cho tốt đấy.

Phát hiện kinh người của Nhạc Dương

Lạt ma Á La ra khỏi phòng bệnh, Trương Lập liền nói với Nhạc Dương: “Này, theo tôi thì cái thứ ấy chắc chẳng có ý nghĩa gì hết đâu.

Nhạc Dương lắc đầu: “Tôn giáo thì không cần thứ ấy, nhưng nếu không phải tôn giáo thì sao?

Không phải tôn giáo thì là cái gì? Những tượng Phật, bích họa, điện đường ấy cậu cũng nhìn thấy cả rồi, cho dù là chúng có khác hẳn với những gì chúng ta đã từng thấy trước đó đi chăng nữa.” Trương Lập nói.

Nhạc Dương vẫn băn khoăn: “Nhưng mười tám tòa tháp ngược dùng để tu luyện, chắc anh cũng không quên chứ. Giáo quan nói đó là nơi tôn giáo thần bí kia dùng để tu hành. Theo anh thì tại sao giáo đồ của tôn giáo ấy lại phải tiếp nhận phương thức rèn luyện tàn khốc như thế?

Trương Lập nghĩ ngợi giây lát rồi nói: “Cậu nghĩ vậy thì cũng phải, mặc dù tôi nghe nói nhiều tôn giáo có các pháp môn khổ tu khác nhau, nhưng hình như chỉ là tạo ra cảm giác đau đớn trên cơ thể thôi, còn tôn giáo này lại dường như muốn rèn luyện người ta thành võ lâm cao thủ vậy. Ừm, cậu nói xem, liệu họ có giống như Thiếu Lâm tự, lấy võ đạo để tu Phật đạo không nhỉ?

Nhạc Dương đáp: “Vấn đề chính là xuất hiện ở đây, tối muộn hôm qua tôi có hỏi giáo sư Phương Tân rồi. Anh có biết tại sao Thiếu Lâm tự lại có nhiều võ tăng thế không? Tương truyền Thiếu Lâm Tung Sơn ở nơi rừng sâu núi thẳm, trước đây các sư trong chùa luyện võ là để đề phòng giặc cướp, mãi đến khi Thập Tam Côn Tăng cứu giá Lý Thế Dân, võ học Thiếu Lâm mới được phát triển mạnh mẽ. Trong lịch sử, tăng nhân Thiếu Lâm tự cũng từng có mấy bận trở thành một lực lượng quân sự đặc thù của triều đình. Vậy còn tôn giáo thần bí kia thì sao, mục đích luyện võ của họ là gì đây?

Trương Lập nói: “Vậy theo cậu thì tại sao họ luyện võ?

Vì chiến tranh!” Nhạc Dương nói chắc nịch, “Gạt ra ngoài tất cả các yếu tố ngoại tại, vào thời cổ đại, chỉ có những quân nhân bất cứ lúc nào cũng có thể ra chiến trường, mới cần tiếp nhận huấn luyện siêu cường độ hàng ngày, nâng thể năng và khả năng phản ứng lên đến cực hạn. Cùng một lẽ đó, phương thức huấn luyện địa ngục tàn khốc ấy cũng chỉ hữu dụng đối với quân nhân, bởi trên chiến trường nếu không đủ khả năng chiến đấu, sẽ chỉ tổ liên lụy đến các quân nhân chiến hữu khác. Nếu như vậy, chi bằng cứ để những kẻ ấy chết luôn ở nơi huấn luyện cho rồi, kẻ nào không thể vượt qua huấn luyện, thì không đủ tư cách ra chiến trường. Còn nữa, nếu đúng là quân nhân, thì mảnh sắt kia cũng có thể là thẻ bài chẳng vấn đề gì cả. Đó là tiêu chí duy nhất để nhận biết thân phận trong quân đội, ký hiệu ở mặt sau nó tương đương với số hiệu quân nhân của chúng ta ngày nay, mỗi người có số hiệu duy nhất, như vậy còn có thể đề phòng gián điệp của kẻ địch trà trộn vào nữa!

Nhạc Dương vừa nói, vừa giơ ngón tay gật gù không ngừng, bản thân cũng lấy làm phấn chấn trước phát hiện của mình.

Trương Lập trợn mắt nói: “Nếu đúng là quân nhân, vậy thân thủ những người ấy chẳng phải còn lợi hại hơn cả chúng ta cơ à? Thế là vô địch rồi còn gì! Làm gì có chuyện ấy cơ chứ!

Vô địch? Đạo quân Ánh sáng!” Nhạc Dương lại nghĩ xa hơn nữa, hứng chí vỗ xuống giường, nói với Trương Lập: “Đại sư Á La từng nhắc đến rồi, Đạo quân Ánh sáng vô địch! Có lẽ những di cốt chúng ta tìm thấy chính là của các binh sĩ trong Đạo quân Ánh sáng ấy. Nếu các chiến sĩ của Đạo quân Ánh sáng đều trải qua huấn luyện trong mười tám tòa tháp ngược, lúc ra chiến trường đương nhiên là họ đủ sức lấy một địch trăm. Nếu đúng là như vậy thì cả Đạo quân Ánh sáng ấy, chính là cánh quân bộ đội đặc chủng mà vương triều Thổ Phồn huấn luyện từ một nghìn năm trước, tất nhiên họ là vô địch rồi, còn ai dám tranh hơn nữa đây?

Trương Lập nói: “Nhưng mà, theo như lạt ma Á La nói, Đạo quân Ánh sáng ấy có lẽ đã mang theo báu vật trong Tứ phương miếu cùng đến Bạc Ba La rồi mới đúng chứ?

Nhạc Dương lắc đầu: “Không, hai chuyện này không hề mâu thuẫn. Nếu nơi đó là cơ sở huấn luyện bí mật, vậy thì những binh sĩ đã thông qua khảo hạch sẽ không cần ở lại đấy làm gì nữa, những người chết bên trong, có lẽ đều là huấn luyện viên và các thành viên dự bị của Đạo quân Ánh sáng mà thôi. Anh còn nhớ không? Lạt ma Á La có nói, không hiểu vì nguyên nhân gì, Đạo quân Ánh sáng đột nhiên cùng biến mất với các báu vật trong Tứ phương miếu. Nếu nói những xương cốt chúng ta thấy trong Đảo Huyền Không tự đúng là của Đạo quân Ánh sáng, vậy theo anh, sự kiện Đạo quân Ánh sáng đột nhiên rời khỏi vương triều Thổ Phồn mà họ phải bảo vệ, liệu có liên hệ gì với những cái xác bên trong Đảo Huyền Không tự không?

Thấy Trương Lập cỏ vẻ đã ngộ ra điều gì đó mà lại như không thể nắm bắt được điểm chính yếu, Nhạc Dương liền chỉ rõ thêm: “Thử nghĩ lại quá trình chúng ta phát hiện ra những bộ xương ấy xem. Lối vào ở hang động Nạp Nam Tháp bị dầm mười mấy mét đất, còn vị trí địa lý của Đảo Huyền Không tự thì sao, bức tượng Phật khổng lồ được xây ở bờ vực thẳm, bên trên là núi đất cao mấy nghìn mét, bên dưới cũng là vực sâu mấy nghìn mét, dưới đấy vực sâu có lẽ còn có sông ngầm chảy rất xiết nữa, lối ra duy nhất chính là ở phía bên kia khe vực, khoảng cách giữa tòa tháp ngược gần nhất và bờ vực cũng phải ba bốn trăm mét, không có xích sắt thì căn bản không có cách nào vượt qua được. Nhưng lúc chúng ta đến đó, bên trong thông đạo chưa từng bị ai mở ra đó, dây xích đã bị người ta chặt đứt từ lâu rồi. Còn cả hai cánh cửa lớn bên trong miệng tượng Phật khổng lồ kia nữa, đó là do bọn Merkin dùng thuốc nổ cực mạnh cho nổ bật ra đấy, vậy nghĩa là sao? Nghĩa là cánh cửa ấy đã bị chèn chặt, chỗ nhiều xác chết nhất, chính là sau hai cánh cửa ấy, loại cửa ấy mà bị chèn chặt vào, sức người có thể đẩy ra được hay không chứ?

Trương Lập khó nhọc nói: “Cậu, ý cậu là…

Nhạc Dương đáp: “Là âm mưu! Đóng chặt cửa lớn, chặt đứt dây xích, lấp đầy lối vào, tất cả đều để chắc chắn rằng không một ai có thể sống sót trở ra, bọn họ làm hết sức triệt để. Ngoài âm mưu kiểu này ra, tôi cũng không thể nghĩ ra nổi, còn cách gì khác có thể tiêu diệt hoàn toàn một đội quân dự bị có sức chiến đấu mạnh mẽ như thế!

Vậy, vậy thì ai đã vạch ra âm mưu đó?” Trương Lập thắc mắc.

Nhạc Dương cười khổ nói: “Chuyện này, thì chỉ sợ thần tiên cũng không biết đáp án rồi. Có lẽ là bọn gián điệp bất mãn với chính quyền Thổ Phồn, hoặc là chính kiến của lãnh đạo Đạo quân Ánh sáng không phù hợp với người thống trị tối cao của vương triều Thổ Phồn, hoặc cũng có thể là nguyên nhân nào đó khác nữa. Nhưng có một điểm có thể khẳng định chắc chắn, những người bên trong đó, đích thực là đã chết sạch, không một ai có thể thoát ra ngoài. Nếu những suy luận trước của tôi là chính xác, căn cứ vào đó có thể suy ra, một nghìn năm trước, biến cố bất ngờ xảy đến với Đảo Huyền Không tự, cùng sự kiện Đạo quân Ánh sáng rời khỏi Thổ Phồn, nói không chừng đúng là có quan hệ gì đó đấy.

Có chứng cứ gì không vậy?” Trương Lập hỏi một câu hết sức ngu ngốc.

Nhạc Dương tỏ vẻ không vui đáp: “Không có. Nói thực lòng, tất cả những suy luận này đều là giả thiết không có căn cứ của tôi thôi, anh hoàn toàn có thể coi như tôi đang một mình lẩm bẩm lăng nhăng cũng được.” Nói xong, anh chàng liền lừ mắt nhìn Trương Lập một cái.

Trương Lập thở dài một tiếng: “Một nghìn năm trước, trong Đảo Huyền Không tự rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì nhỉ?

Nhạc Dương không thèm trả lời. Một lúc sau, Trương Lập lại lên tiếng: “Được rồi, được rồi, tôi biết suy luận của cậu rất có khả năng là thật, nhưng chuyện này, cũng thật khó khiến người ta chấp nhận được mà. Hơn nữa theo tôi ấy à, quân nhân lấy phục tùng mệnh lệnh làm thiên chức, nếu nói bọn họ còn tín ngưỡng tôn giáo, vậy đến lúc đó, giữa tôn giáo và chính quyền Thổ Phồn, rốt cuộc là họ sẽ nghe ai đây? Hả? Cậu nói xem, liệu có phải vì tôn giáo của họ và chính quyền Thổ Phồn xảy ra mâu thuẫn nên mới dẫn đến âm mưu này và sự kiện ly khai của Đạo quân Ánh sáng phải không nhỉ? Nói đi nghe xem nào, tôi biết phân tích của cậu là có lý nhất mà.

Nhạc Dương nói: “Chúng ta không có chứng cứ, chẳng qua chỉ là ngồi đây suy đoán tưởng tượng ra mà thôi.

Trương Lập làu bàu: “Cậu không phải người nhỏ nhen thế đấy chứ, tôi biết là sau khi từ Đảo Huyền Không tự trở về tâm trạng cậu rất tệ, có phải liên quan đến người gặp trong Thập tướng tự tại điện không? Lúc ấy tôi nghe cậu hét cái gì Kiệt thế? Tuy là về sau giáo quan không tra xét ngọn ngành chuyện này ra, nhưng trong tình huống ấy mà cậu lại không khắc chế được mình đến nỗi phải hét lên, rốt cuộc là đã xảy ra chuyện gì thế?

Nhạc Dương đột nhiên thoải mái buông một câu: “Làm gì có chuyện gì, anh nghĩ nhiều rồi.

Trương Lập lại nói: “Chúng ta có phải anh em không vậy? Cậu có chuyện gì giấu giếm chẳng lẽ tôi lại nhìn không ra chắc? Mặc dù từ lúc trở về đến giờ cậu luôn cố tỏ ra thoải mái như không có chuyện gì xảy ra vậy, nhưng cậu cười miễn cưỡng lắm. Cái tên gì gì Kiệt ấy là ai? Trước đây các cậu quen nhau à? Có phải trước đây hắn làm gì có lỗi với cậu, nên cậu mới hận hắn thế?

Nhạc Dương không cười nổi nữa, anh nghiến răng nói: “Nếu còn coi tôi là bạn bè thì anh đừng có quản vào chuyện này! Mỗi người đều có bí mật riêng, xin anh để tôi giữ bí mật của mình, coi như là giúp tôi một chuyện đi, cũng đừng nói với Cường Ba thiếu gia hay người nào khác, được không? Tự tôi sẽ xử lý chuyện này, thế nào cũng có ngày ấy…” Tay anh đột nhiên bấm chặt vào thành giường, tựa hồ như muốn bóp nát thứ gì đó!

Trương Lập thấy Nhạc Dương nói kiên quyết như thế, xem ra dù thế nào cũng nhất quyết không chịu nói với mình, đành lựa lời khuyên giải: “Có nhận lầm người không? Lúc ấy tối thế cơ mà, chúng ta lại đều rất căng thẳng nữa.

Nhạc Dương chỉ đáp lại sáu chữ: “Hóa thành tro, cũng nhận ra!

Lạt ma Á La tìm được Lữ Cánh Nam, đưa chiếc Ca ô vàng cho cô: “Nhạc Dương nói, cậu ta phát hiện ra huy hiệu của Đạo quân Ánh sáng trong tòa cung điện ba tầng ở miệng tượng Phật khổng lồ.

Lữ Cánh Nam vội nói: “Ồ, cậu ta nói thế nào?

Lạt ma Á La đáp: “Cậu ta còn chưa xác định được thứ mình nhìn thấy là pháp khí hay một dấu hiệu nhận biết thân phận nào đó, nhưng cậu ta vẫn kiên trì nhận định rằng thứ đó giống như thẻ bài vậy. Chỉ e là không bao lâu nữa, cậu ta sẽ phát hiện Đạo quân Ánh sáng và tôn giáo thần bí chúng ta nói đến có quan hệ với nhau, hoặc giả sẽ cho rằng Đạo quân Ánh sáng chính là tôn giáo thần bí mà chúng ta vẫn nói đến.

Lữ Cánh Nam thắc mắc: “Nhưng, đó là chuyện sớm muộn gì cũng phải cho họ biết mà?

Lạt ma Á La nói: “Nhưng vấn đề ở chỗ, năng lực điều tra của cậu Nhạc Dương này quá mạnh, ta lo sẽ có một ngày, cậu ta sẽ phát hiện ra một số chuyện bất lợi cho chúng ta, đặc biệt là cho con đấy.

Lữ Cánh Nam nói: “Nhạc Dương là một trong những học sinh ưu tú nhất mà con huấn luyện, về mặt phân tích và điều tra, năng lực của cậu ta sớm đã vượt qua con rồi, điểm này thì con hoàn toàn không hề nghi ngờ. Ý của Á La đại nhân con đã hiểu, nhưng muốn tùy tiện tìm một lý do khiến cậu ấy ra đi thì sợ không được đâu.

Lạt ma Á La liền hỏi: “Tại sao vậy?

Lữ Cánh Nam cúi đầu đáp: “Trước khi xuất phát chuyến này con mới nhận được một số thông tin, vẫn chưa kịp báo với Á La đại nhân. Nhạc Dương đến đây, rất có khả năng là còn có một nhiệm vụ khác.

Lạt ma Á La kinh ngạc thốt lên: “Ý con là, cấp trên không tin tưởng con cho lắm?

Lữ Cánh Nam gật đầu: “Có khả năng đó. Xét cho cùng thì tôn giáo tín ngưỡng của con không phải bí mật gì với cấp trên cả, chẳng phải cũng chính vì nguyên nhân này mà con mới đến phụ trách đội khảo sát nghiệp dư này hay sao?

Lạt ma Á La nói: “Con cho rằng Nhạc Dương nhận được mệnh lệnh mới từ khi nào vậy?

Lữ Cánh Nam đáp: “Có lẽ là cùng thời điểm gia nhập nhóm huấn luyện.

Lạt ma Á La thầm kinh hãi trong lòng, nói: “Chẳng hề nhận ra một chút nào.

Lữ Cánh Nam gật đầu: “Cậu ta học chuyên ngành này mà, năm đó con phải mất rất nhiều công sức mới dạy được cậu ta kỹ năng này, trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng không để bất cứ ai nảy sinh bất cứ nghi ngờ nào với thân phận mà cậu ta đang đóng vai. Có điều, cá nhân con cho rằng dù Nhạc Dương có phát hiện gì chăng nữa thì cũng không ảnh hưởng đến hành động của chúng ta. Dù sao thì mục tiêu của chúng ta và Cường Ba thiếu gia cũng là một, và không hề xung đột gì với nhà nước hết, chúng ta chỉ lấy về thứ vốn thuộc về chúng ta mà thôi.

Lạt ma Á La đột nhiên hỏi: “Vậy có khi nào cậu Nhạc Dương này bị thế lực thứ ba sử dụng không?

Lữ Cánh Nam lắc đầu: “Chắc là không đâu, tại sao đại nhân lại hỏi vậy?

Lạt ma Á La nói: “Hành vi của Merkin lần này vẫn hết sức kỳ quặc. Ta còn nhớ con từng đề cập đến chuyện trong hồ sơ lý lịch của Nhạc Dương có hai năm không rõ ràng, khoảng thời gian ấy liệu có xảy ra vấn đề gì không?

Lữ Cánh Nam khẳng định: “Không có đâu ạ, có điều con lại muốn biết điều gì khiến Á La đại nhân lo lắng?

Lạt ma Á La đáp: “Hành vi của Merkin rất cổ quái, trước tiên, nhóm người hắn dẫn theo có vẻ như toàn là người Trung Quốc, lần này hắn không sử dụng đến bọn lính đánh thuê người Nga.

Lữ Cánh Nam nói: “Có lẽ hắn cảm thấy sử dụng lực lượng vũ trang nước ngoài không tiện bằng chiêu mộ luôn trong nội địa Trung Quốc. Hắn rất giỏi chiêu mộ đám tội phạm hình sự nghiêm trọng bán mạng cho mình, ở nước ngoài cũng thường xuyên giở trò này mà.

Lạt ma Á La lại hỏi: “Vậy thì tại sao hắn lại phải cho nổ tất cả ở đó vậy?

Lữ Cánh Nam cũng lấy làm nghi vấn: “Điểm này thì đích thực rất kỳ quái, theo lý thì hắn cũng phải biết những sinh vật kỳ quái trong hang động ấy đã rửa sạch mọi thứ trong hang rồi, dù là dấu vết để lại trong Thập tướng tự tại điện và Mạn Đà La Tông Tế thì cũng không thể tra xét đến chỗ hắn được mới đúng. Trước mắt chúng ta chỉ có thể dựa vào hành vi mục đích của con người này, quy kết cho tính cách cẩn trọng đa nghi của hắn thôi, có lẽ hắn không muốn để lại bất cứ chứng cứ phạm tội nào của mình cả.

Lạt ma Á La lắc đầu: “Không, không phải vậy. Chắc chắn còn điều gì đó mà chúng ta chưa biết, nhất định phải nghĩ cách làm rõ mới được, con người này tương đối nguy hiểm. Còn cả kẻ đi bên cạnh hắn ta nữa, nếu ta không lầm thì người ấy là một tên Thao thú sư đó!

Thao thú sư!” Lữ Cánh Nam giật mình kinh hãi thốt lên: “Vậy bọn hắn và 13 Kỵ sĩ Bàn Tròn…

Lạt ma Á La gật đầu: “Chắc chắn chúng có liên quan đến 13 Kỵ sĩ Bàn Tròn, khi Merkin nghe ta nói ra mấy tiếng này, cả người hắn như biến đổi hoàn toàn, lộ ra vẻ lo lắng bất an, nếu không phải vậy, ta cũng thật không biết phải ứng phó với hắn thế nào nữa. nếu bị kẻ còn lại kia đuổi kịp, ta tuyệt đối không phải địch thủ của bọn chúng.

Lợi hại đến vậy sao?” Lữ Cánh Nam trầm ngâm nói: “Khi các trưởng lão trong giáo phái nhắc đến trong 13 Kỵ sĩ Bàn Tròn có Thao thú sư đã biến mất của đất Tạng chúng ta, con vẫn còn chưa tin lắm, giờ xem ra…

Lạt ma Á La nói: “Bản thân Merkin đã là một kình địch rồi, khi đó hắn ra tay trong chiêu còn lồng chiêu khác, chưa giở hết toàn lực, mỗi lần xuất thủ đều để dành thời gian và không gian đủ để biến chiêu, theo như ta đoán, có lẽ hắn mới chỉ dùng năm phần sức mạnh mà thôi.

Lữ Cánh Nam thốt lên: “Năm phần sức mạnh?

Lạt ma Á La gật đầu: “Ừm, lúc ấy ta vì muốn đánh nhanh thắng nhanh, đã dùng đến bảy phần sức lực, thêm vào đó là ra tay bất ngờ khiến hắn trở tay không kịp nên mới may mắn đoạt được bản đồ. Nếu Merkin dùng hết toàn lực, chỉ sợ ta cũng không dễ gì mà thoát thân, càng đừng nói đến chuyện cướp được đồ trên người hắn.

Đúng lúc ấy, một bác sĩ họ Chương bước tới hỏi: “À, hai người đều ở đây cả, e hèm, tôi muốn hỏi một chút, hai người chính là chị gái và chú của anh Trác Mộc Cường Ba phải không ạ?

Hai người khẽ gật đầu. Bác sĩ Chương liền nói: “Vậy… vậy mời đi theo tôi, chúng tôi có chuyện cần nói với hai vị.

Hai người theo bác sĩ vào một phòng làm việc, bên trong không ngờ đã tự tập sáu bảy bác sĩ nữa, cả giáo sư Bùi cũng có mặt.

Giáo sư Bùi lên tiếng trước tiên: “Lần này gọi hai vị đến đây, là vì chúng tôi đã phát hiện trên người anh Trác Mộc Cường Ba… một vấn đề… một vấn đề tương đối lớn, hai vị đều là người thân của anh ấy, phải chứ?

Lạt ma Á La và Lữ Cánh Nam đều tỏ vẻ như đã biết trước sẽ là vậy rồi, từ lúc nhập viện đã ký tên xác nhận quan hệ thân thích trực hệ vào giấy đồng ý phẫu thuật của Trác Mộc Cường Ba. Đại sư nói: “Phải rồi, tôi là chú hai của nó.” Lữ Cánh Nam cũng nói: “Tôi là chị ruột của nó.

Một bác sĩ trẻ tuổi đưa mắt nhìn Lữ Cánh Nam, cảm giác cô “chị ruột” này còn trẻ hơn em trai của mình nữa.

Giáo sư Bùi nói: “Ừm, là thế này, biết nói thế nào nhỉ, sức khỏe của anh Trác Mộc Cường Ba…

Không ngờ lạt ma Á La đã nói thẳng luôn: “Là vấn đề về máu phải không?

Lữ Cánh Nam cũng nói: “Đã phát triển đến mức độ nào rồi?

Giáo sư Bùi nói: “Hai người đã biết cả rồi ư? Vậy thì tốt, Tiểu Thôi, cậu giải thích cho họ nghe đi.

Một bác sĩ trung niên đeo kính nghiêm túc đứng lên nói: “Trong khi phẫu thuật, máu anh Trác Mộc Cường Ba dường như có gì đó rất quái dị, vì vậy chúng tôi đã tiến hành tô màu tủy sống để chụp cho anh ấy. Kết quả có được khiến chúng tôi hết sức kinh ngạc. Tế bào bạch huyết và bạch cầu của anh ấy dường như đã xảy ra biến dị, nhưng lại không giống với bất cứ dạng nào mà chúng tôi từng biết. Chúng tôi đã hỏi thăm các chuyên gia trong nước và đồng nghiệp quốc tế, họ cũng tỏ ra rất hứng thú với mẫu xét nghiệm này, nếu chúng tôi đoán không sai, bệnh mà anh Trác Mộc Cường Ba mắc phải là một chứng ung thư máu biến dị hoàn toàn mới, giờ biến dị đã khuếch tán đến tủy sống và toàn bộ các tế bào máu, hai người… có hiểu không?

Lạt ma Á La lộ vẻ bi thương đau đớn, hỏi tiếp: “Tất nhiên là chúng tôi đã biết, Cường Ba mắc bệnh này không phải một hai ngày. Bác sĩ, ông nói thẳng đi, theo phán đoán của các ông, cháu tôi còn sống được bao lâu nữa?

Bác sĩ trung niên ấy cũng dứt khoát đáp luôn: “Vì đây là bệnh lạ chưa gặp bao giờ, cần phải quan sát một thời gian dài mới đưa ra kết luận chính xác được. Có điều, nếu đổi thành một chứng ung thư máu đã biết loại hình, cùng giai đoạn như vậy, với sức khỏe của anh Trác Mộc Cường Ba, có lẽ, có lẽ nhiều nhất là sống được hai năm nữa!

Đại sư và Lữ Cánh Nam đưa mắt nhìn nhau, hoàn toàn giống như những gì các vị trưởng lão ở thôn Công Bố đã nói. Giáo sư Bùi lên tiếng: “Có điều, các vị cũng không cần phải quá bi thương. Nếu hai người đồng ý, xin hãy cho phép bệnh viện chúng tôi tiến hành trị liệu toàn diện cho anh Trác Mộc Cường Ba. Chúng tôi sẽ dùng đến những kỹ thuật tiên tiến nhất, sử dụng các loại thuốc mới nhất, vả lại, chúng tôi còn có thể trị liệu hoàn toàn miễn phí cho anh Trác Mộc Cường Ba nữa.” Nói xong, giáo sư ngước mắt nhìn hai người thân của Trác Mộc Cường Ba. Trong tình huống thông thường, khi bệnh viện đưa ra đãi ngộ như vậy, người nhà bệnh nhân sẽ không hề do dự gì mà đáp ứng ngay.

Vị bác sĩ không ngờ lần này lại nhận được một lời từ chối thẳng, Lữ Cánh Nam nói: “Chúng tôi hiểu ý của bệnh viện các ông rồi, nói trắng ra thì chính là thí nghiệm y học trên căn bệnh mới chứ gì. Không cần tốn sức nữa, chúng tôi sẽ không đồng ý đâu.

Tất cả các bác sĩ vốn đều có mấy phần thích thú pha lẫn kỳ vọng, vừa nghe cô nói câu này, ai nấy rất lấy làm thất vọng. Giáo sư Bùi vẫn muốn thử một lần cuối cùng: “Nhưng mà…

Lạt ma Á La liền ngắt lời: “Chúng tôi hoàn toàn hiểu được ý của phía bệnh viện. Sở dĩ nói không cần, là vì từ nhỏ Cường Ba đã mắc bệnh này, chúng tôi đã đưa nó đi chữa trị ở rất nhiều bệnh viện ở Anh, Đức, Mỹ và nhiều nước khác, họ cũng đã cố gắng hết sức, nhưng đều như nhau thôi, không hề có một chút hiệu quả nào, ngược lại những thứ thuốc men đó còn gây cho Cường Ba tổn thương lớn hơn. Trên thực tế, cha nó cũng qua đời vì chứng bệnh này, cả cha tôi, tức là ông nội nó, cũng chết vì bệnh này. Đây có lẽ là căn bệnh có lịch sử di truyền trong gia tộc, chúng tôi không muồn làm Cường Ba tổn thương thêm nữa.” Đại sư nói dối mà không hề chớp mắt lấy một lần, đến nỗi giáo sư Bùi cũng lộ thần sắc thông cảm.

Lữ Cánh Nam lại bổ sung thêm: “Sự thực là chuyện này trong gia tộc chúng tôi vốn chẳng phải bí mật gì nhưng chúng tôi vẫn luôn giấu Cường Ba, chỉ nói với nó đó là một căn bệnh bình thường, về cơ bản đã trị dứt rồi. Hy vọng phía bệnh viện có thể vì chúng tôi… vì Cường Ba mà giữ kín bí mật này. Đến thời cơ thích hợp, chúng tôi sẽ tự mình cho nó biết sự thực.” Nói tới đây, giọng cô dường như có chút nghẹn ngào.

Các bác sĩ đều bày tỏ sự thương tiếc, đồng thời gắng sức an ủi hai người nhà bệnh nhân sắp mất đi người thân này, đảm bảo sẽ giữ kín bí mật, vừa khuyên giải vừa tiễn ra cửa, lại còn dặn dò họ chớ nên quá đau lòng, kẻo anh Trác Mộc Cường Ba sẽ nhìn ra sơ hở.

Ra khỏi gian phòng ấy, lạt ma Á La mới thở dài một tiếng. Lữ Cánh Nam cũng thở hắt ra khe khẽ. Hai người bọn họ đều hiểu rất rõ, cổ độc, không phải là thứ y học hiện đại có thể lý giải được, muốn giải độc thì phải bắt đầu từ Bạc Ba La thần miếu đã mất tích kia.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.