Resident Evil 2 - Vịnh Caliban

Chương 6



Dịch giả: Lioncoeur, Hoa Thần, Christie, Twiness_nast, Beautiful_ada, Machinator

Karen Driver là một người phụ nữ cao lêu nghêu hơn ba mươi tuổi, tóc ngắn vàng hoe và bề ngoài trông đứng đắn kiểu doanh nhân. Ngôi nhà của cô được dọn dẹp tươm tất và sạch bóng như thể đã được khử trùng. Bộ đồ cô ta mang cho Rebecca thì cực kỳ thích hợp và được gói ghém hoàn hảo: một cái áo thun xanh đậm với quần rất hợp nhãn, đồ lót và vớ bằng vải đen. Ngay cả nhà tắm cũng thể hiện rõ cá tính của chủ nhân: tường trắng với những cái kệ xếp ngay ngắn, cái nào cũng được xếp đặt ngăn nắp theo đúng mục đích sử dụng.

“Đúng kiểu một chuyên gia luật, bị gò ép đến độ ám ảnh …”

Rebecca lập tức cảm thấy mình đáng khiển trách khi nghĩ như vậy. Karen đã tỏ ra khá niềm nở, thậm chí là thân thiện cho dù có chút gì đó sống sượng. Có lẽ cô ta ghét ồn ào.

Rebecca ngồi lên thành bồn cầu và vén lai quần lên khỏi mắt cá chân, cảm thấy dịu bớt căng thẳng sau khi trút bỏ bộ quần áo cũ và kèm theo là một cảm giác thư thái đến ngạc nhiên, mặc dù cô đã có một giấc ngủ chập chờn. David đã thuê một chiếc xe ở phi trường, vài giờ sau đó họ đến nơi ở và từng người loạng choạng về phòng của mình. Rebecca mệt đứ đừ, cô chỉ còn làm nổi một việc là tháo giày trước khi nằm lăn ra giường. Cô chỉ thức giấc khi đã gần mười giờ, vào nhà tắm xả vòi sen và thấp thỏm lo lắng chờ nghe tiếng David gõ cửa…

Suy nghĩ của Rebecca bị cắt ngang khi có tiếng cửa mở ra rồi đóng lại, những giọng nói lạ lẫm vang khắp sảnh. Cô khoác vội áo vào và cài nút thật nhanh, cảm thấy lo sốt vó. Cả nhóm đã tập họp. Cái gì phải đến cũng sắp đến rồi, tuy cô đã có chuẩn bị đôi chút sau khi thức dậy, nhưng việc đương đầu với cái sắp tới vẫn khiến cô cảm thây sốc. Cuộc tập kích bất ngờ của Umbrella vào nhà Barry dường như đã xảy ra ở một dòng thời gian khác hay sao ấy, mặc dù chỉ mới cách đây vài giờ thôi “…

… Bây giờ thì ổn rồi. Bất quá nó chỉ là một trong những thứ làm mình lo lắng thôi. David và đội của anh ta không ở dó, họ không thấy lũ chó, đám rắn, những sinh vật phi tự nhiên trong đường hầm … hay con Tyrant. “

Rebecca cố xua những hình ảnh ấy đi khi đứng dậy, nhặt bộ đồ bẩn dưới sàn lên và nhét vào cái túi rỗng cô mang theo trên chuyến bay. Chẳng có lý do để cho rằng khu nghiên cứu vịnh Caliban sẽ giống như thế, hơn nữa lúc này lo lắng cũng bằng thừa. Rebecca dừng lại trước tấm gương, quan sát vẻ bồn chồn của cô gái trẻ trong đó, rồi bước ra cửa.

Cô hướng về phía sảnh, đi qua căn bếp sáng lấp lánh và vòng qua góc hành lang. Cô nghe thấy tiếng David, dường như anh đang tóm lược những sự kiện tối hôm trước.

“…việc đầu tiên sáng nay là gọi cho những người khác. Một nhóm khác có liên hệ với FBI giữ vai trò cầu nối và xúc tiến cuộc điều tra khi chúng ta nắm được bằng chứng. Họ sẽ ngóng tin chúng ta một khi chiến dịch hôm nay hoàn tất …”

Anh ta ngưng nói khi Rebecca bước vào, mọi cặp mắt đều đổ dồn về phía cô. Karen đã lôi một mớ ghế vào phòng và hiện đang ngồi cạnh cái bàn nước thấp lè tè lát kiếng. Hai anh chàng khác đang ngồi trên chiếc trường kỷ đối diện David. David cười nhẹ với cô, còn hai anh chàng kia thì đứng dậy hướng về phía cô để chờ giới thiệu.

“Rebecca, đây là Steve Lopez. Steve là thiên tài điện toán và là tay thiện xạ số một của đội…”

Steve cười nham nhở, một nụ cười phát khiếp nhưng nó lại cực kỳ thích hợp với cái vẻ trẻ con của anh ta. Lúc anh ta bắt tay cô, hàm răng trắng nhởn trông thật tương phản với màu da rám nắng tự nhiên. Anh chàng có cặp mắt đen láy đầy linh lợi, mái tóc cũng màu đen, và chỉ cao hơn cô có vài inch.

“Dù sao thì cũng không già quá…”

Ánh mắt anh ta thân mật và trực diện, đến nỗi bất chấp tình huống hiện tại, Rebecca vẫn ước gì hồi nãy mình chải lại tóc trước khi rời nhà tắm. Nói đơn giản thì anh chàng này có vẻ háo sắc.

“… John Andrews, chuyên gia liên lạc và trinh sát chiến trường.”

John có làn da sẫm màu nâu gụ và không có râu, nhưng anh vẫn làm Rebecca liên tưởng đến Barry. Anh có một thân hình đồ sộ, một vóc người cao sáu foot với những cơ bắp rắn chắc. Anh cười rạng rỡ với cô, một nụ cười ngây thơ đến kinh ngạc.

“Đây là Rebecca Chambers, chuyên gia hóa sinh và y tá chiến trường của sở S.T.A.R.S. thành phố Raccoon”, David nói.

John buông tay cô, vẫn còn mỉm cười: “Hóa sinh? Wow, cô bao nhiêu tuổi rồi?”

Rebecca cười đáp lễ, mắt cô nhấp nháy với vẻ hóm hỉnh: “Mười tám. Lẻ chín tháng.”

John bật cười khi ngồi xuống, một giọng cười khàn khàn kín đáo. Anh ta liếc qua Steve rồi nhìn lại cô.

“Cô nên coi chừng cái gã Lopez”. Anh nói, với một cái giọng vờ như thì thầm. “Hắn mới hai mươi mốt. Và còn độc thân.”

“Thôi đủ rồi ông anh”, Steve gầm gừ, hai má đỏ lựng lên. Anh ta nhìn cô và lắc đầu.

“Cô cần thông cảm với John. Anh ta cho là mình có khiếu hài hước và không ai ngăn nổi anh ta nghĩ như vậy.”

“Mẹ của cậu tin là tôi hài hước đấy nhé”,John phản pháo, và trước khi Steve đáp trả thì David đã xen vào.

“Thôi đủ rồi”. Anh nhẹ nhàng nói. “Chúng ta chỉ có vài giờ để họp cho công việc hôm nay. Mọi người bắt đầu được chưa?”

Sự pha trò của John và Steve đã làm tiêu tan mối lo lắng của cô, khiến cô thấy mình hòa nhập vào đội ngay lập tức, nhưng cô càng vui mừng hơn khi chứng kiến mọi người tập trung về phía David với khuôn mặt lộ rõ vẻ chăm chú nghiêm nghị, theo dõi anh lôi ra những thứ được ngài Trent đưa và đặt lên bàn. Thật tốt vì họ là những tay chuyên nghiệp …

“… Nhưng có nghĩa lý gì chứ?”. Tâm trí cô thì thầm. “Đội S.T.A.R.S. Raccoon cũng rất chuyên nghiệp đấy thôi. Và cho dù có biết về những gì mà Umbrella làm thì có gì khác biệt đâu? Nếu virus đã biến đổi và vẫn còn lây nhiễm thì sao? Nếu nơi đó lúc nhúc bọn Tyrant … hay những thứ còn tệ hơn nữa thì sao?”

Rebecca không có thời gian cho những lời thì thầm phản đối yếu ớt ấy. Cô tập trung về phía David, lặng lẽ nhủ thầm rằng những mối lo lắng sẽ không cản trở công việc của mình. Và nhiệm vụ thứ hai của cô sẽ không phải là nhiệm vụ cuối cùng.

Vì muốn tốt cho Rebecca nên David đã bắt đầu tóm lược những gì anh có với cả nhóm trước đó. Với sự thông minh của cô, với những trải nghiệm mà cô gặp ở khu nghiên cứu Umbrella, anh không mong cô phải cố nén sợ hãi để phát ngôn hết lượt này đến lượt khác.

“Nhiệm vụ của chúng ta là xâm nhập khu nhà, tập họp các bằng chứng về Umbrella và các cuộc nghiên cứu, rồi quay ra với càng ít rắc rối càng tốt. Tôi sẽ trình bày thấu đáo từng bước hành động, và nếu bất cứ ai có câu hòi hay ý kiến gì, bất kể là vặt vãnh cỡ nào, thì cứ lên tiếng. Rõ chứ?”

Mọi người đếu gật đầu. David tiếp tục, cảm thấy thoải mái khi quan điểm của anh đã được truyền đạt.

“Chúng ta đã thảo luận về một vài khả năng có thể xảy ra, và mọi người cũng đã đọc các bài báo rồi. Tôi muốn đề cập đến việc chúng ta có thể đối đầu với những kiểu tai nạn nào đó. Umbrella đang nỗ lực che dấu sự thật, và dù chúng ta cho rằng họ đã bắt cóc hoặc thủ tiêu các ngư dân vô ý xâm nhập vùng cấm, nhưng họ đương nhiên sẽ làm gì đó để đánh lạc hướng chú ý của dư luận.”

“Sao Umbrella không gởi ai đến đó để dọn dẹp?”, John hỏi

David lắc đầu: “Ai dám chắc là họ không gởi? Rất có khả năng họ đã xóa sạch các bằng chứng rồi – trong trường hợp này, chúng ta chỉ còn nước nhập bọn với những người ở Raccoon và bắt đầu cuộc chơi khác.”

Mọi người gật đầu lần nữa. Anh không đề cập chuyện virus có thể vẫn còn lây nhiễm, bởi lẽ mọi người đều biết đến khả năng đó, nhưng lý do chính là vì anh đã chuẩn bị để Rebecca vạch rõ vấn đề này sau khi tóm lược xong.

David nhìn xuống tấm bản đồ và thầm thở dài trước khi chuyển sang vấn đề kế tiếp.

“Hãy nhìn lối vào”, anh nói. “Nếu đây là một cuộc hành quân công khai, chúng ta có thể đến bằng trực thăng và xông thẳng vào. Thế nhưng có nhiều người ở đây, nên nếu chúng ta gây báo động thì mọi chuyện sẽ đổ bể trước cả khi bắt đầu. Cách tốt nhất để không bị phát hiện là đi bằng thuyền. Chúng ta có thể sử dụng bè giống như chiến dịch tàu chở dầu hồi năm ngoái.”

Karen khẽ huýt sáo và hơi cau mày: “Liệu chúng ta có bị phát hiện không nếu tiếp cận bến tàu?”

David chỉ vào bản đồ, ngón tay của anh rà lên vết cắt chữ V của khu hàng rào, phía nam khu vực.

“Sự thật là tôi không muốn sử dụng bến tàu chút nào. Nếu chúng ta vào, chúng ta sẽ bỏ qua bến tàu…”

Anh lần ngược lên, dọc theo chiếu dài vịnh.

“Chúng ta có thể dựa theo cách bố trí của khu vực để giấu bè vào trong các hang động dưới ngọn hải đăng. Theo những gì tôi đọc được, có một lối đi tự nhiên dẫn từ phía dưới vách đá lên thẳng trên đó. Trong trường hợp nó bị chặn, chúng ta sẽ lui lại sử dụng con đường thay thế khác.”

“Liệu chiếc bè có gây sự chú ý nếu ai đó nhìn thấy từ ngoài chăng?”, Rebecca hòi.

David lắc đầu. Hồi năm ngoái, đội Exeter S.T.A.R.S. đã dùng bè để tiếp cận một tàu chở dầu đang bị chiếm giữ bởi bọn khủng bố, chúng đã đe dọa đánh đắm tàu nếu yêu sách không được thỏa mãn. Lần đó là một nhiệm vụ ban đêm.

“Nó có màu đen, và động cơ đặt ngầm dưới nước. Chúng ta sẽ hoàn toàn vô hình nếu chỉ đi ngang qua bến tàu. Thuận lợi của cách tiếp cận này là, chúng ta có thể rút lui chờ lần sau nếu thấy khu nghiên cứu có vẻ nguy hiểm.”

Anh chờ một lúc cho mọi người ngẫm nghĩ, lúc này anh biết không nên hối thúc họ. Mọi thành viên trong nhóm đều là những người lính giỏi, nhưng đây là một nhiệm vụ tình nguyện. Nếu có ai đó thật sự do dự thì bây giờ là lúc tốt nhất để rút lui. Và anh sẽ dựa vào quyết định của họ để đưa ra những gợi ý tiếp theo. Ánh mắt anh quét qua khuôn mặt non trẻ của Rebecca, đủ để nhận thấy sự sẵn sàng đầy kiên định của một đặc vụ S.T.A.R.S. tài giỏi đang cháy bỏng trong đôi mắt màu nâu lanh lợi ấy, thể hiện mối quan tâm sâu sắc đến kế hoạch của anh. Anh bắt đầu thấy thích cô, không chỉ vì cô là người hữu dụng cho nhiệm vụ này. Cái kiểu chân thành bất – chấp – thực – tại của cô quả thật đã lôi cuốn anh, nhất là sau những lộn xộn cũng như rắc rối về tinh thần gần đây. Cô ta dường như hoàn toàn thấy thoải mái …

David xua những ý nghĩ ấy đi, bất chợt nhận ra mình đã gánh vác quá nhiều căng thẳng và chịu đúng quá nhiều mệt mỏi; đến nỗi khả năng tập trung của anh đang ngày càng tồi tệ. Thôi nào, cố lên đi chứ, bây giờ đâu phải lúc nghĩ chuyện bao đồng.

“Nói rõ ra”, anh tiếp tục. “Một khi vào trong, chúng ta sẽ di chuyển thành hàng chữ chi để lách qua bến tàu, lẫn vào bóng đêm. John sẽ đi tiên phong với Karen ngay phía sau, dọ thám khu vực để tìm phòng thí nghiệm và cố tìm hiểu xem chuyện gì đang xảy ra. Steve và Rebecca sẽ nối bước còn tôi đoạn hậu. Khi đã tìm ra phòng thí nghiệm, tất cả cùng vào một lượt. Rebecca biết phải tìm tài liệu gì, nếu họ có hệ thống máy tính thì Steve có thể truy cập các hồ sơ. Những người khác có nhiệm vụ yểm hộ. Một khi lấy được thông tin cần thiết, chúng ta sẽ rút lui theo con đường đã vào.”

Anh cầm tập thơ của Trent lên và vỗ nhẹ: “Một trong số các đồng đội của Rebecca đã chạm mặt với Trent trước đây. Cô ta nghĩ thứ này có liên hệ với cái mà chúng ta cần tìm. Vì vậy tôi muốn tất cả mọi người xem qua nó trước khi lên đường. Có thể nó rất quan trọng đấy.”

“Liệu có tin được ông ta không?”, Karen hỏi. ”Cái người tên Trent này không có vấn đề gì chứ?”

David cau mày, không biết nên trả lời thế nào.

“Ồ vâng, có vẻ là với bất cứ lý do gì thì ông ta vẫn ở cùng phe với chúng ta”. Anh chậm rãi nói. “Và Rebecca nhận ra một trong những cái tên trong bản danh sách, trước đây người đó chuyên nghiên cứu về virus. Thông tin này hoàn toàn đáng tin cậy”. Đây không phải là một câu trả lời trực tiếp, nhưng có lẽ đành phải làm vậy.

“Chúng ta cần làm gì để tránh bị nhiễm virus?”, Steve lặng lẽ lên tiếng.

David nghiêng đầu về phía Rebecca: “Có lẽ cô nên cung cấp cho mọi người một vài kiến thức nền tảng về cái chúng ta sắp phải đương đầu…”

Rebecca gật đầu, hướng về phía mọi người.

“Thực sự tôi không thể nói chính xác là chúng ta sắp đối phó với cái gì. Lúc nhóm của tôi thoát nạn, tôi đã làm mất những mẫu mô và nước bọt, cho nên tôi không thể làm được các xét nghiệm. Nhưng căn cứ theo các hiệu ứng, rõ ràng T-Virus là một thực thể đột biến gen, chúng biến đổi cấu trúc nhiễm sắc thể của vật chủ ở cấp độ tế bào. Nó lây nhiễm trên mọi chủng loài, có thể khuyếch tán vào thực vật, thú vật, chim, bò sát, hay bất cứ thứ gì mà ta gọi tên được. Trên một số sinh vật, chúng thúc đẩy sự tăng trưởng đến mức khó tin; và tất cả cá thể bị nhiễm đều có những hành vi hung tợn.

Theo những bản báo cáo có được trong khu biệt thự, có thể thấy chúng có tác động đến não bộ, ít nhất là não người – gây ra những hiệu ứng rối loạn tâm thần phân liệt cấp độ cực cao ở cơ quan thần kinh D2. Nó cũng triệu tiêu sự đau đớn. Những nạn nhân đã gặp hầu như không có phản ứng với vết thương gây ra do súng. Chúng không hề cảm thấy đang bị thối rữa từ ngoài vào trong …”

Nhà hóa học trẻ ngừng nói, có lẽ để lục lại ký ức. Bất chợt trông cô già dặn hẳn đi.

“Những gì xảy ra ở khu biệt thự có vẻ là kết quả của một cuộc thí nghiệm hẳn hoi, nhưng tôi không nghĩ đó là cái được mong đợi. Các nhà khoa học gần như chắc chắn đã can thiệp nó khi kết hợp với những thí nghiệm gen. Căn cứ vào việc không ai trong chúng tôi bị nhiễm và cũng không thấy nó khuyến tán, tôi nghĩ chúng ta không phải lo lắng về việc hít thở.

Tất cả những gì chúng ta cần cẩn thận là tránh tiếp xúc với vật chủ, ý tôi là mọi thứ tiếp xúc, mặc dù như vậy vẫn chưa phải là đủ, vì đây là một thứ độc hại khó lường khi nhiễm vào máu, chỉ một giọt máu rơi ra từ vật chủ cũng có thể chứa hàng triệu tế bào vi khuẩn. Chúng ta sẽ cần đuợc trang bị tận răng và những bài học về nhiễm độc virus mới có thể triệt để ngăn chặn mọi dạng thức tái tạo của chúng, dù thế nào đi nữa thì cũng cần tránh tiếp xúc bằng mọi giá. Nếu may mắn, thì có lẽ giờ này chúng đã chết hết rồi … hay ít nhất thì khả năng lây lan của chúng cũng đã tàn lụi theo thời gian. Dù sao cũng chỉ là phỏng đoán thôi.”

Một bầu không khí im lặng căng thẳng bao trùm khi mọi người cân nhắc về những điều cô vừa nói. David có thể cảm thấy họ đang run rẩy, cả anh cũng thế. Biết virus có độc tính khác hẳn với việc lắng nghe những đặc trưng của nó.

“Lạy Chúa, bọn người đó nghĩ gì thế không biết? Cho lây nhiễm mọi vật một cách có chủ định bằng cái thứ kinh khủng như vậy, bọn chúng có còn lương tâm không chứ?”

Suy nghĩ đến đó, một vấn đề khác lóe lên trong óc David: Anh sẽ sống thế nào nếu một trong các thành viên bị nhiễm virus? Trước đây anh đã từng dẫn đầu những nhiệm vụ mà các thành viên dưới quyền bị thương; hồi chưa phải là đội trường, anh cũng đã hai lần chứng kiến các đồng đội trong S.T.A.R.S. bị giết. Thế nhưng lần này là tự anh đưa cả đội vào một khu vực có nguy cơ bị lây nhiễm bởi những căn bệnh lặng lẽ, khủng khiếp, nơi họ có thể chết bởi móng vuốt của những con quái vật không giống người…

“… và vấn đề là do mình quyết định. Đây không phải là một nhiệm vụ được cho phép, lẽ ra mình chẳng có trách nhiệm gì ở đây cả. Vậy thì làm thế nào mà mình lại muốn họ cùng đi chứ?”

“Ha, nghe như là một nhiệm vụ tồi tệ đây”, cuối cùng John lên tiếng. “Nếu chúng ta muốn đến đó đúng giờ thì phải nhanh lên.”

Anh ta cười với David, một nụ cười khẽ không giống với cá tính thường ngày, nhưng dù gì đó cũng là cười.

“Anh biết tôi rồi đấy. Tôi thích những trận đánh ra trò. Hơn nữa phải có ai đó chặn những thằng điên này phát tán đi khắp nơi chứ, đúng không?”

Cả Steve và Karen cùng gật đầu, khuôn mặt hai ngưới cũng quả quyết y như John, bất chấp những gì họ sắp phải đối đầu. Rebecca thì đã quyết định từ khi ở Raccoon. Bất chợt David cảm thấy một mối xúc cảm đang lan khắp mọi người, một sự kết hợp kỳ lạ khó hiểu giữa niềm kiêu hãnh với sự sợ hãi và lòng nhiệt tình, đến nỗi anh không biết phải làm gì bây giờ nữa.

Sau vai giây ngập ngừng im lặng, anh gật đầu một cách dứt khoát và nhìn lên đồng hồ. Sẽ mất vài giờ để đến được khu vực đổ bộ.

“Được rồi”, anh nói. “Tốt nhất chúng ta hãy vào kho và chuẩn bị đạn dược. Chúng ta sẽ cần nó khi lên đường.”

Khi mọi người đứng dậy và cất bước, David tự nhắc nhở mình rằng họ làm việc này vì sự cần thiết, rằng từng người đều đã cân nhắc khi quyết định tham gia vào một nhiệm vụ nguy hiểm như thế. Họ biết cái giá phải trả. Bằng cách đó, anh sẽ được an ủi đôi chút nếu có gì bất trắc xảy ra.

Karen đang ngồi trên lưng toa chở hàng và lôi băng đạn ra, những cụm từ trong mấy thông điệp bí ẩn không ngừng xuất hiện trong đầu khi cô nhét mấy viên đạn chín ly vào từng ổ đạn.

“… Đã nhận thông điệp của Ammon/dãy xanh dương/nhập câu trả lời cho chìa khóa/đảo ngược số và chữ/cầu vồng thời gian/đừng đếm/xanh dương để truy cập.”

Cô nạp xong một băng đạn nữa và đặt nó bên cạnh những cái khác, lơ đễnh chùi ngón tay dính đầy dầu mỡ vào ống quần trước khi làm tiếp. Một làn gió thổi nhẹ qua qua cái toa chở hàng nóng bức, mang theo cái nóng mùa thu và mùi mặn của biển. Họ phải tránh xa con đường phía nam của vịnh, và tìm một khoảng đất rộng rãi cách mép nước không đầy ¼ dặm để trú chân. Ngoài kia, mặt trời đang lặn, trải bóng dài lên mặt đất khô cằn. Cách đó không xa, tiếng sóng vỗ lên vào bờ biển nghe thật dễ chịu, một thứ tiếng động làm nền cho những giọng nói thì thầm của mọi người khi họ tiến hành công việc. Steve và David đang kéo bè lên, trong khi John kiểm tra động cơ. Rebecca thì đang thu thập mớ dụng cụ y khoa từ những hành trang “mượn đỡ” trong kho dụng cụ của S.T.A.R.S.

“… số và chữ … mật mã chăng? Nó có liên quan gì đến thời gian không nhỉ? Đếm ở đây phải chăng là tổng số hàng, hay là cái gì khác?”

Tâm trí cô không ngừng bám chặt lấy các cụm từ như thể một con chó đang ngoạm xương vậy.

“Nó có ý gì đây? Các hàng phải chăng có một mối liên hệ duy nhất, hay mỗi cái lại dẫn tới một bài toán đố lớn hơn? Có phải Ammon đã gởi thông điệp, tại sao anh ta làm việc cho Umbrella?”

Cô đã nạp hết băng đạn và với tay lấy cái túi lớn không thấm nước, tạm gác những suy diễn để tập trung trở lại vào công việc. Cô biết những luồng tư tưởng của mình sẽ lại tiếp tục sau khi hoàn tất mấy việc được giao. Đây là lối tư duy của cô; cô sẽ không nghĩ ngơi chừng nào mọi chuyện còn mập mờ. Luôn luôn có câu trả lời, luôn luôn, tìm ra nó hay không chỉ là vấn đề tập trung và tiến bước chính xác theo đúng trình tự.

Những khẩu súng bán tự động đã được lau sạch và sẵn sàng sử dụng, đặt nằm gọn gàng bên cạnh thiết bị điện đài. Họ không theo vũ khí gì khác ngoài trang bị thường dùng của đội S.T.A.R.S., khẩu Beretta, ngoài ra còn có đèn nháy, thứ mà David nhấn mạnh là phải có. Mặc dù Karen đồng ý, cô vẫn thấy tiếc khi họ không thể mang theo những khẩu súng trường có thiết bị nhìn trong đêm. Sau khi đã nghe chi tiết thông tin về đám zombie trông như người có thể xuất hiện dọc đường, cô thật sự không biết mình có an toàn nổi với súng lục và đèn nháy không nữa.

“Sự thật là mình đã thấy lo lắng từ khi David truyền đạt tin tức rồi. Sự thật là mọi thứ đều không theo trình tự nào cả, những mẩu thông tin chẳng hề ăn khớp với nhau như chúng ta mong muốn.”

Trớ trêu thay, chính những lý do đã thuyết phục cô bắt tay vào việc chọc thủng bức màn bí ẩn lại cũng khiến cô thấy băn khoăn: Trent, sự cấu kết hiển nhiên của S.T.A.R.S. và Umbrella, nguy cơ xảy ra một tai nạn nhiễm độc nguy kịch tại chính thành phố cô cư ngụ.

“Kẻ nào bị mua chuộc? Chuyện gì xảy ra ở vịnh Caliban? Họ đang che giấu thứ gì? Bài thơ có nghĩa gì?

Chưa đủ dữ kiện. Chưa đủ.”

Cô vẫn luôn lấy làm tự hào về tính thực dụng của mình, về khả năng lần ra sự thật bằng kinh nghiệm chứ không hồ đồ hấp tấp, phán đoán vô căn cứ. Đó là bí quyết giúp cô thành công ngoài chiến trường, mặc dù cô thừa nhận là có những lúc mình trở nên lãnh đạm thái quá – thậm chí lạnh lùng – nhưng con người cô là vậy, cô luôn quan niệm rằng chỉ có thể hài lòng một khi đã khám phá ra chân tướng. Cho dù có thể phải đánh đổi bằng máu, thì cô vẫn thấy hài lòng khi giải quyết được bài toán, khi biết được nguyên nhân lẫn biện pháp thích hợp cho nó. Câu hỏi chưa có lời đáp về vịnh Caliban là một thách thức với tư duy của cô. Nó làm cô thấy bực tức và buộc cô phải tập trung mọi giác quan để phán đoán – cô sẽ không khuây khỏa chừng nào chưa trả lờì được những câu hỏi.

Cô đã chuẩn bị xong vũ khí. Cô cũng kiểm tra lại các thắt lưng chuyên dụng, và ngó chừng xem David có cần cô làm gì nữa không …

Karen ngập ngừng, cảm thấy từng giọt mồ hôi ấm đang chạy dọc theo sống lưng. Không ai có mắt sau lưng cả, và cô thì cũng đã kiểm tra hai lần các nếp gấp và túi đeo bên thắt lưng rồi. Thế rồi, với một cảm giác gần như tội lỗi, cô cho tay vào túi áo và lôi ra cái bí mật của mình, cảm thấy an ủi với sức nặng quen thuộc trong lòng bàn tay.

“Lạy Trời, nếu mấy gã kia biết thì mình có nước chui xuống đất thôi.”

Nó là thứ cha cô đã trao cho cô, một chứng tích mà ông còn giữ từ Thế chiến 2, và là một trong số những món đồ hiếm hoi làm cô nhớ đến ông, một trái lựu đạn cá nhân kiểu cổ, còn gọi là lựu đạn quả dứa do hình dáng của nó. Việc mang nó theo bên mình có vẻ không thích hợp lắm, nó làm cô thấy mình có phần lố bịch. Cô làm việc hăng say để chứng tỏ mình hoàn toàn là người sống theo lý trí, một phụ nữ thông minh, gạt mọi cảm tính sang một bên. Nhưng quả lựu đạn này lại cho thấy một sự mâu thuẫn khi cô luôn mang nó bên mình trong mọi nhiệm vụ. Hơn nữa, cô luôn tin chắc là có lúc nó sẽ hữu dụng…

“Phải, phải luôn tự nhủ như thế… S.T.A.R.S. đã số hóa lựu đạn cá nhân bằng kíp hẹn giờ, thậm chí kích nổ bằng thiết bị máy tính. Còn chốt của quả lựu đạn này gần như không thể giật ra bằng kìm…”

“Karen, chị có cần giúp gì không?”

Karen giật mình nhìn lên và bắt gặp dáng vẻ sốt sắng của cô gái trẻ, cô ta bước vào từ phía sau lưng toa chở hàng. Ánh mắt cô dừng lại ở quả lựu đạn và ánh lên một sự tò mò.

“Em tưởng chúng ta không được mang theo chất nổ chứ… ha, có phải nó là loại lựu đạn quả dứa không? En chưa bao giờ thấy nó cả. Nó còn hoạt động chứ?”

Karen nhanh chóng nhìn quanh, e là có ai khác nghe lỏm được, rồi cười ngượng ngùng với nhà hóa học trẻ tuổi, cảm thấy hết sức lúng túng.

“Thật sự nó đâu phải là chuyện xấu. Cô ta không biết mình, cô ta đâu cần quan tâm tới chuyện mình có mê tín hay không chứ?”

“Suỵt! Coi chừng họ nghe thấy đấy. Lại đây một chút”. Cô nói, và Rebecca ngoan ngoãn leo vào trong toa, vừa cười cười một cách bí ẩn. Thật sự, Karen thấy một sự hài lòng khó hiểu khi bị Rebecca phát giác. Cô đã làm việc ở S.T.A.R.S. bảy năm mà chưa bị ai bắt gặp. Trong thoáng chốc, cô chợt nhận ra là mình thích cô gái này.

“Coi như nó là một quả dứa đi, và không có chất nổ gì bên trong cả. Em đừng nói với ai nhé? Chị mang theo để cầu may thôi.”

Rebecca nhướng mày: “Chị mang một quả lựu đạn còn sống chỉ để cầu may ư?”

Karen gật đầu, nhìn cô một cách nghiêm trang:

“Phải, nếu Steve và John biết được, họ sẽ cười chị thúi mũi cho xem. Chị biết nó có vẻ ngu ngốc, nhưng nó là một bí mật.”

“Em không nghĩ là ngu ngốc đâu. Chị bạn Jill của em có một cái mũ lấy hên…”, Rebecca vươn tay ra trỏ vào dải băng đeo trên trán, “…và em thì đã mang cái này suốt trong mấy tuần thực tập. Em cũng mang nó theo lúc vào khu nghiên cứu Spencer.”

Khuôn mặt trẻ trung của cô thoáng qua một nét yếu ớt, và rồi cô lại cười, đôi mắt màu nâu sáng của cô ánh lên vẻ thẳng thắn và cương quyết: “Em sẽ câm như hến.”

Lúc này Karen cam đoan là mình thích cô gái này thật. Cô đút quả lựu đạn vào túi, gật đầu với người đối diện: “Cám ơn em nhiều. Mà này, chúng ta sẵn sàng lên đường chưa?”

Vài nếp nhăn xuất hiện trên mặt Rebecca, biểu lộ sự căng thẳng:

“Dạ, chắc là ổn. John muốn kiểm lại cái tai nghe lần nữa, còn mọi thứ đều đã xong.”

Karen gật đầu, thầm ước mình có thể nói gì đó để xua tan nỗi sợ hãi của Rebecca. Rebecca đã từng đương đầu với Umbrella rồi, nên những gì Karen thốt ra lúc này đều chỉ là rỗng tuếch, không chừng còn mang tiếng dạy khôn nữa. Cô cảm thấy hơi lo lắng, tuy cô không phải là đứa ngốc, nhưng sợ sệt là một cảm giác không mấy quen thuộc với cô. Trong phần lớn các nhiệm vụ, cảm giác cô thường có là cảnh giác và háo hức muốn khám phá sự thật.

“Cầm lấy vũ khí đi. Chị sẽ lo phần còn lại”. Cuối cùng Karen lên tiếng. Ít nhất cũng có chuyện cho Rebecca làm.

Rebecca giúp cô dỡ các thiết bị xuống, trong khi mặt trời đang khuất dần dưới lòng biển. Những cơn gió lành lạnh thổi tới và những vì sao mờ ảo đầu tiên bắt đầu xuất hiện trên bầu trời Đại Tây Dương.

Khi bóng tối ập xuống, họ lặng lẽ di chuyển xuống nước, vũ khí sẵn sàng, triển khai đội hình, chăm chú nhìn về phía làn nước tối tăm như chính những bí mật nó đang nắm giữ.

Khi những tia sáng cuối cùng khuất hẳn nơi chân trời, mọi người đều đã sẵn sàng tiến lên. John và David lẩn chiếc bè vào trong bóng tối, Karen kéo chiếc mũ chụp màu đen xuống và vỗ nhẹ vào chỗ phồng lên bên dưới áo, thầm hy vọng sẽ không cần phải động tới vật nằm bên dưới.

Sự thật đang chờ ở phía trước. Bây giờ là lúc khám phá chân tướng của nó.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.