*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.
Editor: Kẹo Mặn Chát
Đêm đó An Bình ngủ lại trong miếu Thành hoàng, nhưng cậu trằn trọc mãi không ngủ được.
Dạo gần đây thực sự đã xảy ra quá nhiều chuyện, muôn đầu nghìn mối, khiến cậu cảm thấy hơi sợ buồn ngủ.
Bởi, vào mộng ngựa sắt giáo vàng, lại gặp núi thây biển máu.
Lúc ban ngày, cậu vốn định hỏi Mộc Cát Sinh chuyện gì đã xảy ra sau đó, nhưng lời nói đến bên miệng lại bị nuốt xuống.
Bất luận đối phương còn nhớ hay không, có một số hồi ức chính là vết thương tồn tại nhiều năm, bên ngoài khép miệng, bên trong vẫn còn mưng mủ như xưa.
Trong và ngoài miếu Thành hoàng đều treo đèn lồng đỏ, có đèn được thắp bằng điện, có đèn được thắp bằng nến.
Bên ngoài phòng của An Bình cũng có treo một chiếc, nhẹ nhàng đung đưa trong gió.
An Bình chăm chú nhìn chiếc đèn lồng, bấc nến cháy bùng nổ tí tách tạo thành những đóa hoa đăng nho nhỏ.
Đêm qua trong ngọn đèn dần cháy, tiêu điều ảm đạm cùng gió mưa[1].
Đột nhiên có người cầm kéo cắt đi một đoạn bấc nến, làm cho ánh đèn sáng hơn một chút.
An Bình chớp chớp mắt, phát hiện chiếc đèn lồng kia bỗng trở nên tinh xảo lộng lẫy với khung sơn mài lục giác và vải lụa bao quanh các mặt.
Trong không gian lại có hương hoa mai thoang thoảng.
Đồ đạc trong phòng cũng thay đổi theo.
Nến đỏ sáng rực, chăn thêu uyên ương, rèm buông lụa gấm.
Trên bàn gỗ lim nhỏ có một đôi chén rượu, là kháp ti pháp lang cốt vàng [2].
Sau đó, An Bình nhìn thấy chữ “song hỷ” trên cửa sổ, cậu chợt nhận ra —— đây là căn phòng cưới mà cậu từng gặp trong mộng!
Cách đó không xa vẫn còn bình hoa mà cậu đánh đổ khi tới lần trước, dưới đất toàn mảnh sứ men xanh vỡ vụn.
An Bình đột nhiên ý thức được gì đó, quay đầu lại nhìn thì thấy, trong phòng ngoại trừ tân nương, còn có thêm một người khác.
Người nọ đưa lưng về phía cậu, lấy chao đèn chụp lên đuốc hoa, trên người mặc hỷ phục đỏ thắm, dáng người cao ngất, rắn rỏi mạnh mẽ.
Đối phương cúi người nắm lấy tay tân nương, thấp giọng nói qua tua khăn trùm đầu.
“…!Nay ta đã gặp được chàng.”
Giọng nói rất nhẹ, tựa như có chút mong chờ vừa chạm là vỡ, lại tựa như chứa đựng mối thâm tình bao năm chẳng phai.
“Mong chàng mãi ở bên ta chẳng rời [3].”
An Bình không khỏi nín thở, nhìn hai người đối mặt trong phòng, chao đèn chạm trổ hắt ra những bóng sáng chập chờn rực rỡ, phủ lên khắp tường ánh vàng màu ngân hạnh.
Trong một thoáng sau đó, đèn tắt người vắng, ánh trăng sáng tràn đầy cả phòng.
Cửa chính bỗng nhiên bị gió thổi mở, vang lên những tiếng đập lớn ầm ầm.
An Bình lập tức mở choàng hai mắt.
Hóa ra cậu vừa mới ngủ thiếp đi trên giường.
An Bình vô cùng hoảng hốt, cảnh tượng trong mộng có hơi giống với lần đầu tiên khi cậu xông vào phòng cưới.
Nhưng lần này lại hoàn toàn khác, căn phòng trở nên rực rỡ với ánh nến đỏ, toàn bộ khắp nơi như chan chứa đầy ắp bao tình thâm ý đậm.
Nhưng cậu cẩn thận hồi tưởng lại, cảm thấy dường như có chỗ nào đó rất kỳ lạ.
Không biết đèn lồng ngoài cửa sổ đã tắt từ khi nào, cửa phòng mở rộng, gió lạnh ùa vào, lạnh lẽo thấu xương.
An Bình rùng mình một cái, đứng dậy định đóng cửa lại, thì lại thấy toàn bộ miếu Thành hoàng đều chìm vào bóng tối.
Kiến trúc cổ xưa bị màn đêm bao phủ, chỉ có thể nhìn thấy loáng thoáng xà nhà màu nâu đỏ.
Tình cảnh này thật sự rợn người không sao tả xiết, An Bình ớn lạnh sống lưng, vội vàng muốn đóng chặt cửa, song lại nghe thấy cách đó không xa vang lên một tiếng cạch, có thứ gì đó vừa rơi xuống.
Cậu vốn định nhắm mắt mặc kệ, nhưng không biết nên nói là do sự tò mò thúc đẩy hay trong lòng có linh cảm mơ hồ mà cậu lại đánh bạo đi ra bên ngoài, phát hiện đó là một căn phòng không đóng cửa.
An Bình lấy điện thoại di động ra, bật đèn pin lên chiếu sáng không gian xung quanh.
Nhìn bao quát thì nơi này cũng không lớn, tường trắng gạch xanh, cũng không có đồ đạc gì, thậm chí còn có thể gọi là đơn sơ.
Cả phòng chỉ có một cái bàn được đặt trước một mặt tường, trên bàn có một lư hương một đĩa trái cây, thờ cúng một tấm bài vị.
Hình như gió lớn đã thổi tung cửa phòng, hất đổ tấm bài vị xuống đất, tiếng động vừa rồi hẳn là phát ra từ nơi này.
An Bình thở phào nhẹ nhõm, ở miếu Thành hoàng có bàn thờ cúng cũng không hiếm lạ, không có gì phải ngạc nhiên.
Cậu đi tới phía trước, nhặt bài vị lên đặt về vị trí cũ, nương theo ánh đèn chiếu sáng, nhìn dòng chữ trên bài vị.
Trong phút chốc, một cơn ớn lạnh ập đến, lạnh buốt tới tận đỉnh đầu, An Bình hoàn toàn sững sờ, khiếp sợ ngây người tại chỗ.
Đột nhiên một tiếng sấm rền vang khắp chân trời, chớp lóe lên từng luồng ánh sáng trắng.
Bgay sau đó mưa to ào ào đổ xuống như trút nước, gió lớn rít gào ngoài cửa làm những bóng cây ngả nghiêng lay động.
Vào mùa đông rất hiếm khi có mưa và sấm chớp, nhưng Mộc Cát Sinh lại nói đêm nay sẽ có mưa, quả nhiên đến nửa đêm trời bắt đầu mưa xối xả.
Có tiếng bật lửa vang lên trong mưa, lập tức có một ngọn đèn sáng lên.
An Bình đột nhiên hoàn hồn lại, cuống quít đặt bài vị trong tay về chỗ cũ, đi ra ngoài cửa.
Chỉ thấy ở phía cuối hành lang, cổng chính của miếu Thành hoàng đã được mở ra, trong tiếng mưa rào rào dữ dội, Ô Tất Hữu đang ngồi hút thuốc trên ngưỡng cửa ngoài đó.
Dưới bậc cửa có ánh đèn hắt lên, nương theo ánh đèn, An Bình có thể nhìn thấy rõ vật mà cậu ta cầm trên tay, đó là Tẩu Cô Vọng.
Thiếu niên hút thuốc rất chậm, nhưng lại có chút ung dung, khó có được một lần cậu ta trầm lặng như thế này.
Xuyên qua làn khói và bọt nước, An Bình dường như lại nhìn thấy hình bóng cao lớn dịu dàng năm đó.
Người nọ cũng hút hết một túi thuốc như vậy, sau đó đối mặt với sinh tử.
“Dấu phong lưu vùi trong mưa gió.”
Ô Tử Hư đứng ở cuối con phố dài.
Mây đen đằng xa đang dần kéo đến bao trùm cả thành, tiếng đại bác đinh tai nhức óc liên tục vang lên không ngớt.
“Sắp chết đến nơi rồi đấy, mẹ nó cậu còn đứng đây ngâm thơ làm phú nữa à.” Tùng Vấn Đồng ngồi trên mái hiên uống rượu, “Đúng là cái đồ văn nhân thích khoe chữ.”
“Lão Nhị, mấy câu này chẳng giống những lời mà ông sẽ nói chút nào.” Ô Tử Hư cầm tẩu thuốc trong tay, khoan thai đứng trong mưa.
Bây giờ anh lại là quý công tử nho nhã thanh cao ngày trước, không còn sự cuồng loạn như khi đánh nhau với Tùng Vấn Đồng, hay dáng vẻ bất lực như lúc tranh luận với Mộc Cát Sinh.
Dường như mấy ngày trước anh đã thoáng biến thành một thiếu niên trẻ tuổi, nhưng giờ đây đối mặt với thiên quân vạn mã, anh lại lần nữa lấy lại phong thái nhẹ nhàng tao nhã của Vô Thường Tử.
Cách đó không xa chính là ngã tư nơi thang Âm dương bị phong ấn, cùng với tiếng pháo nổ không ngừng bên ngoài thành, trên mặt đất cũng nổi lên những trận rung chuyển bất thường.
Đột nhiên, một tia chớp xẹt ngang qua màn đêm, gây ra một tiếng nổ kinh thiên động địa, mặt đất bắt đầu nứt ra, từ sâu trong lòng đất vọng lên tiếng vạn mã hí vang.
Mưa lớn trút xuống.
Ô Tử Hư quẹt diêm, châm lửa vào cối tẩu, nhìn chằm chằm vào lỗ đen ở đầu phố, “Bắt đầu thôi.”
Tùng Vấn Đồng nhảy xuống khỏi mái hiên, rút đao ra khỏi vỏ, đứng chắn ở phía trước, trầm giọng nói: “Làm tốt việc của cậu đi.”
Ô Tử Hư vỗ vỗ vai hắn, xoay người đi về phía cuối đầu kia của con phố dài, tiếng vó ngựa dồn dập sau lưng dần dần tiến đến gần.
Tùng Vấn Đồng hét lớn một tiếng, một ánh đao cực lớn bay vút lên, tựa như vầng trăng thứ hai trên mặt đất.
Vò rượu rơi xuống đất vỡ tan tành, tiếng vũ khí va chạm tạo thành một cảnh tượng hỗn loạn, trong không khí lập tức tràn ngập mùi máu tươi nồng đậm.
Ô Tử Hư không quay đầu lại, anh vững vàng đi về phía đối diện con phố, nhả ra làn khói thuốc đầu tiên trong đêm mưa.
Cùng lúc đó, trên dưới tường thành đã phủ đầy máu và thi thể.
Mộc Cát Sinh khàn giọng hét lên, “Giữ ổn định! Ai bị thương thì khiêng xuống! Ai chết thì chuyển thi thể sang một bên! Đội tiên phong dùng hỏa lực áp chế! Tuyệt đối không thể để bọn chúng xông lên cổng thành!” Cổ họng của y đau rát như sắp rách ra, y ngửa đầu uống hai hớp nước mưa, sau đó giơ tay đập nát đầu một tên lính địch đang trèo lên cổng thành, khiến máu văng tung tóe lên khắp mặt y.
Chẳng còn thời gian đâu mà lau cho sạch, y cắn giật chốt lựu đạn rồi ném xuống dưới.
Quân địch kéo đến bất thình lình, trận chiến bảo vệ thành đã diễn ra suốt một ngày một đêm.
Ban đầu có ba ngàn người giờ chỉ còn lại chưa tới một ngàn, lực lượng hai bên chênh lệch rất lớn, đạn dược thiếu hụt, hiện tại tất cả mọi người đều đã cạn kiệt sức lực.
Nhưng y nhất định phải chống đỡ đến cùng, tối nay thang Âm dương mới mở, ít nhất y phải trụ được đến bình minh, như vậy mới có thể mở ra một tia hy vọng sống sót cho bọn lão Nhị.
Nếu chỉ bàn về chuyện thắng bại, việc âm binh bạo loạn thực ra là một sự trợ giúp rất lớn.
Thà làm ngọc nát còn hơn ngói lành, dẫn quân địch vào trong thành rồi cùng âm binh xông lên đồng quy vu tận.
Nhưng đồng thời y cũng hiểu rất rõ, bất luận là quân phòng thủ bên mình, hay hơn một vạn lính địch dưới thành đều không phải đối thủ của âm binh.
Một khi đã thả quân địch vào thành, kết quả cuối cùng cũng sẽ chỉ là toàn quân bị diệt, oán khí chồng chất bị âm binh hấp thụ, mà lúc này không còn người nào có thể ngăn cản âm binh được nữa —— Âm binh sẽ tràn ra khỏi thành, khi đó điều chờ đợi phía trước, chính là tai họa diệt vong thực sự cho khắp nơi trên lãnh thổ này.
Có lẽ đây chính là kết cục mà Thất Gia Chư Tử đang chờ đợi, dùng sức mạnh của âm binh tiêu diệt toàn bộ sơn hà hỗn loạn.
Lấy độc trị độc, triệt để lật đổ thế giới này.
Cuối cùng vào thời điểm cả hai bên đều bị tổn hại, bảy nhà sẽ ra tay, chỉnh đốn lại nhân gian.
Quả là đa mưu túc trí, đối với bảy nhà mà nói, làm như vậy thực sự là giải pháp tối ưu, có lẽ đối với người nắm quyền mà nói, đây cũng là lựa chọn không thể tốt hơn.
Nhưng y không làm được, Mộc Cát Sinh lau nước mưa trên mặt, bật cười tự giễu chính mình.
Y thật sự không thích hợp làm Thiên Toán Tử, y chỉ là một tên lính bình thường không thể bình thường hơn, cho nên y không thể ngồi nhìn một tòa thành bị chiếm đóng, rồi từ nay về sau khu vực nội địa không còn cửa ải chiến lược có thể trấn giữ.
Y càng không thể trơ mắt nhìn âm binh hoành hành khắp nơi, từ nay về sau chúng sinh lầm than, xương trắng ngàn dặm phơi đồng hoang, hai bên bờ sông Vong Xuyên sẽ đầy rẫy những linh hồn vô tội.
Y cực kỳ quan tâm đến những gì được mất của tòa thành này, y phải cân nhắc suy tính cho mỗi tính mạng một già một trẻ của đồng bào.
Vì thế y không có gan tự cao tự đại coi thường mọi thứ, càng không thể để sáu căn thanh tịnh* mà nhìn xuống nhân gian này được.
(*Sáu căn thanh tịnh: ý nói để nội tâm thanh tịnh, không bị ngoại cảnh tác động, chi phối.)
Mưa bom bão đạn liên tục dội xuống tường thành, quân phòng thủ bên dưới gần như dùng cả xác mình chặn kín cổng thành.
“Báo cáo ——!” Có một binh lính thúc ngựa chạy vội tới, thở không ra hơi hét lên với Mộc Cát Sinh: “Tham mưu trưởng bảo tôi chuyển lời cho ngài! Phía Nam thành sắp không giữ được rồi!”
Mộc Cát Sinh rống to hơn: “Chuyển lô thuốc súng cuối cùng qua đây! Nói với ông ấy dù có khó khăn đến mức nào cũng phải bảo vệ cho tôi.”
Ban đầu thành cổ có bốn cổng thành, nhưng năm ngoái, tư lệnh Mộc dự kiến trước mọi chuyện đã đóng lại một cổng, còn lại ba tòa cổng thành.
Mấy ngày trước Mộc Cát Sinh thúc ép Tùng Vấn Đồng phải gấp rút chặn thêm một cổng nữa, còn lại hai cổng, một cổng ở phía Đông thành một cổng ở phía Nam thành.
Trước khi khai chiến Mộc Cát Sinh đã hạ lệnh, đầu có thể rơi, nhưng không được để mất một cánh cổng nào.
Còn chưa dứt lời, một viên đạn lạc bay về phía đầu Mộc Cát Sinh, y không kịp né tránh, nhưng lại có một người đột nhiên lao tới bên cạnh, đè chặt y xuống đất.
Lúc kéo người nọ ra, Mộc Cát Sinh sờ thấy toàn máu, cát đá vụn vãi trên đỉnh đầu, người nọ nhếch nhác bụi bặm.
Y sửng sốt trong giây lát, sau đó chợt nhận ra người trước mắt, “Tiểu Phong Tử?! Mẹ khiếp ai cho nhóc nhập ngũ? Năm nay nhóc mới 14 tuổi thôi mà?!”
“Cậu, cậu Mộc.” Tiểu Phong Tử máu me khắp người, thở không ra hơi, nói: “Không, không đúng, bây giờ phải gọi là trưởng quan.”
“Nhóc đã hỏi cha mẹ nhóc chưa?!” Mộc Cát Sinh không khống chế được hét lớn: “Nhóc xông lên chịu chết, ai sẽ chăm sóc em gái nhóc đây?”
“Nhà em vẫn luôn nhận ân huệ của anh, quan tham cưỡng chiếm nhà em được anh đuổi đi, cha em bệnh nặng cũng được Sài gia giúp đỡ chăm sóc thu nhận…!Anh và Sài công tử đều không rời đi, cha em nói, làm người phải có lòng biết ơn…”
“Từ nhỏ em đã đi theo anh lăn lộn khắp nơi, bên ngoài có lưu manh muốn chiếm khu phố của chúng ta, anh liền mang theo bọn em đánh gã ra khỏi nơi này.
Hiện giờ bọn lưu manh đông hơn mạnh hơn muốn tới cướp thành của chúng ta, em đương nhiên cũng phải đi theo anh, theo anh đuổi bọn họ đi…”
Tiểu Phong Tử phun ra một ngụm máu, cầm tay Mộc Cát Sinh, cười nói đứt quãng: “Ngày đó anh đến cửa hàng nhà em đặt may áo, em đến tận Nghiệp Thủy Chu Hoa đưa áo cho anh, đáng tiếc đêm đó mọi người ăn uống vô vùng vui vẻ, mà anh lại không đến dự tiệc tẩy trần của mình…!Không, không sao, chờ anh đánh thắng, chúng ta lại cùng nhau uống rượu chúc mừng…!Anh mặc áo dài em may cho anh, nhất định sẽ rất phong độ…”
Mộc Cát Sinh lau máu trên mặt, “Đừng nói nữa, anh phái người đưa nhóc đi trị thương.”
Y giao Tiểu Phong Tử giao cho lính truyền tin phi ngựa đến lúc nãy, khu cứu trợ cách cổng thành không xa, “Thằng nhóc này cố gắng gượng cho anh.” Y ôm vết thương của Tiểu Phong Tử, hung hăng nói: “Chờ đến lúc anh trở về, anh sẽ mời nhóc uống rượu ăn mừng, ăn sập Nghiệp Thủy Chu Hoa.”
Khói thuốc súng bốc lên bốn phía, trong chốc lát không một ai có thể thở được.
Mộc Cát Sinh xoay người rời đi, trên cầu thang đầy rẫy người chết, y giẫm lên từng mảnh vụn thân thể của chiến hữu, leo trở lại chốn núi thây biển máu trên cổng lầu.
Lính truyền tin mang theo Tiểu Phong Tử vội vàng chạy như điên đến trạm y tế, Sài Thúc Tân toàn thân đầy máu tiến tới đón, “Giao cho tôi.” Hắn ôm Tiểu Phong Tử xuống ngựa, lính truyền tin vội vã rời đi ngay sau đó.
Hắn ôm người vào trong lều trại, máu tươi tuôn xối xả, khắp nơi đều là kêu thảm thiết bi thương.
“Anh ơi!” Cô bé phụ tá nhìn thấy người trong vòng tay của Sài Thúc Tân, hai mắt lập tức đỏ hoe vì lo lắng, tiến tới đỡ Tiểu Phong Tử nằm xuống một bãi đất trống, “Sài công tử, anh trai em bị thương thế này còn cứu được không ạ?”
Hai ngày nay cô bé đã chứng kiến quá nhiều sinh tử, tương đương với việc chứng kiến mấy đời người trôi qua.
Cô bé không lánh nặng tìm nhẹ mà hỏi vết thương có nặng không, mà lựa chọn hỏi thẳng có cứu được không.
Có thể cứu thì cứu, nếu như không thể, thì dứt khoát kết thúc luôn còn hơn nằm thoi thóp hơi tàn.
Cô đã liên tục kéo tha rất nhiều người chết hết người này đến người khác, nhưng cô vẫn còn sức, vẫn đủ khỏe để có thể cõng anh trai mình ra ngoài.
Sài Thúc Tân liếc nhìn cô bé, xách theo hòm thuốc, nhẹ nhàng nói: “Không sao đâu.”
Cô bé lập tức bật khóc, xong lại sợ ảnh hưởng đến việc Sài Thúc Tân châm cứu nên đành phải chạy sang một bên chăm sóc người bị thương khác, len lén nhỏ tiếng nức nở.
Tiếng gió tiếng mưa cùng tiếng súng.
Tiếng gió rít gào chói tai, tiếng mưa lớn rơi lộp độp trên lều trại, tiếng đạn lạc vang dội cách đó không xa.
Cả căn lều trại đều rung chuyển, nhưng tay cầm kim của Sài Thúc Tân vẫn rất vững vàng.
Hắn bình tĩnh làm sạch vết thương, gắp mảnh đạn ra, cầm máu khâu lại, cuối cùng nói với cô bé: “Anh nhớ là còn dư một ít dược liệu, em cứ dựa theo phương thuốc cũ trước đó, thêm trần bì và đại hoàng, rồi sắc một chén thuốc cho cậu ấy uống.”
Cô bé nhanh chóng vâng lời, chạy vội ra khỏi lều trại, Sài Thúc Tân nhìn Tiểu Phong Tử, “Em gái cậu đi rồi, thấy đau thì có thể kêu lên.”
Tiểu Phong Tử rên rỉ mở miệng: “Bên ngoài trời đang mưa, anh bảo em ấy mặc thêm quần áo…”
“Được.” Sài Thúc Tân bắt mạch cho cậu, một lát sau nói: “Tình hình chiến đấu trên thành thế nào?”
“Em không hiểu lắm…!Nhưng rất nhiều người không kịp đến khu cứu trợ đã chết, tất cả mọi người đều liều chết đánh một trận…”
“…!Mộc Cát Sinh thì sao?”
“Trưởng quan Mộc vẫn ổn, chỉ bị thương một chút, nhưng vẫn có thể chống đỡ được…”
“Tôi biết rồi.” Sài Thúc Tân khẽ nói: “Cậu làm rất tốt.”
“…!Anh có thấy lạnh không?”
“Tôi không sao.” Sài Thúc Tân cởi áo khoác của mình ra, đắp lên người Tiểu Phong Tử, “Cậu nghỉ ngơi cho tốt, nơi này có tôi rồi.”
Trong khoảnh khắc nói chuyện ngắn ngủi, bàn tay của hắn vẫn luôn run rẩy, thậm chí còn rung mạnh hơn mạch đập của đối phương.
Hai bên con phố dài chất đầy vò rượu, âm binh trong thang Âm dương đang điên cuồng chui ra, nhưng vẫn không thể vượt qua những vò rượu được một bước.
Trên phố dài đông nghịt binh mã, Tùng Vấn Đồng chém giết đỏ cả mắt, cầm đao gặt đầu người như chém dưa thái rau.
Âm binh bị đao Thỉ Hồng chém trúng thì tức khắc hóa thành một làn khói xanh, tro cốt bay tán loạn.
Vạt áo của Tùng Vấn Đồng gần như bị nhuộm thành màu trắng, nhưng ngay sau đó lại bị mưa to cuốn trôi.
Âm binh chui ra càng ngày càng nhiều, tuy rằng đã bỏ tiền Sơn Quỷ vào trong vò rượu rồi bày trận từ trước, nhưng suy cho cùng một con phố cũng không thể ngăn cản cả một đại quân quá lâu.
Đầu phố quá hẹp để âm binh có thể phân tán ra tứ phía, vì vậy chúng dẫm đạp lên đầu đồng đội mình leo lên giữa không trung, cứ như vậy xếp chồng từng tầng từng tầng một, giáp trụ chồng chất lại một chỗ với nhau, giống như một khối đồng khổng lồ.
Có người thổi tù và, âm binh bắt đầu phát ra những tiếng gào khàn đặc.
Tùng Vấn Đồng lạnh lùng nhìn cảnh kêu gào hãi hùng trước mắt.
Hắn cắn chặt răng, cơ bắp toàn thân căng cứng hẳn lên, khớp xương phát ra từng tiếng răng rắc chói tai, cuối cùng hắn xoay cổ một cái, dường như bỗng dưng hắn đã cao thêm một tấc.
Hắn vứt bỏ áo ngoài, mồ hôi và hơi nóng cuồn cuộn không ngừng toát ra từ lỗ chân lông, nước mưa thậm chí không thế đến gần người hắn, bởi chúng đã bị bốc hơi ngay giữa không trung.
Đây là bí thuật “Đốt tuyết” của Bồng Lai, hắn ở Kiếm Các suốt ba năm mới luyện tập thành công.
Bằng cách đả thông kinh mạch để có thể điều chỉnh xương cốt tứ chi, phát huy tối đa tiềm năng của con người.
Vào ngày hắn luyện tập thành công, trên núi có một trận tuyết rơi dày, hắn chôn một hạt giống xuống đất, sau đó thổ nạp vận khí thì một đóa hoa sen đã nở rộ trong tuyết.
Hắn hít thở chậm rãi, cả cơ thể đã được điều chỉnh vào trạng thái cao nhất.
Chỉ có bí thuật thôi thì chưa đủ, tuyệt kỹ công pháp cần phải phối hợp với một ngoại lực cực mạnh —— Thuật dùng đao Thỉ Hồng được Mặc gia truyền lại từ đời này sang đời khác, thanh đao này là do Bàn Cổ – vị thần khai thiên lập địa tạo ra, một khi vung đao xuất chiêu thì có thể bổ đôi cả âm dương.
Một giọng nói quen thuộc vang lên bên tai hắn: “Khi con nắm chắc thanh đao này trong tay, thì không gì có thể ngăn cản người Mặc gia.”
“Quả nhiên cảnh tượng náo nhiệt như thế này không thể thiếu mẹ, mẹ à.” Tùng Vấn Đồng cười với người phụ nữ trong trí nhớ, ngửa đầu thở ra một hơi thật dài, sau đó hét lớn một tiếng, lao vút ra ngoài như tên bắn.
Những vò rượu bên đường lần lượt nổ tung, rượu mạnh và mưa lớn trộn lẫn với nhau, giống như sóng cồn nâng Tùng Vấn Đồng lên giữa không trung.
Hắn dồn hết sức lực của bản thân rút đao ra khỏi vỏ, rồi chém xuống một cách thật quyết liệt.
Đó là một đường đao tuyệt đẹp lại vô cùng ác liệt, một vòng tròn hoàn chỉnh được vẽ ra trên không trung, ánh đao đánh thẳng vào bức tường đồng, tựa như mặt trời lặn xuống sông, tạo ra những cơn sóng cuộn cao ngất.
Âm binh chồng chất như núi lập tức sụp đổ, gào lên một tiếng thảm thiết rồi hóa thành bụi phấn.
Tùng Vấn Đồng kiệt sức, cả người ngã rạp xuống đất, sau rồi hắn chật vật cầm đao bò dậy, hét lớn: “Ô Nghiệt!”
“Tiểu bối vô lễ, phải gọi ta là bà lớn Thái Tuế!” Một luồng sáng đỏ lao ra từ bên trong thang Âm dương, vượt qua tầng tầng lớp lớp đám người, tấn công âm binh từ phía sau làm cho người ngã ngựa đổ.
Ô Nghiệt vừa đi vừa đánh, nhanh chóng thoát ra khỏi vòng vây, ném quả cầu hoa trong tay ra xa, “Nhóc con tiếp lấy!”
Quả cầu hoa được ném lên giữa không trung, Tùng Vấn Đồng nhảy lên tung một cước đá, quả cầu trực tiếp bay đến cuối con phố dài.
Quả cầu hoa nổ tung trên mặt đất rồi biến thành một mặt trống lớn màu đỏ thẫm, tiếng mưa to rơi lộp bộp lên mặt trống giống như hàng vạn tiếng vó ngựa phi dồn dập.
Ô Tử Hư đứng trước trống, ngẩng đầu nhìn lại, chậm rãi nhả ra làn khói thuốc cuối cùng.
Anh ném tẩu thuốc đi rồi nhún người nhảy lên mặt trống.
An Bình nhìn Ô Tất Hữu ném tẩu thuốc sang một bên, đứng dậy đi vào trong màn mưa lớn, tiếng trống trầm hùng văng vẳng vọng tới.
Cậu chạy theo đi ra ngoài cổng, trông thấy một chiếc trống lớn đã được đặt sẵn ở đầu phố không biết từ lúc nào.
Ô Tất Hữu nhảy lên mặt trống, thiếu niên cúi người đứng dưới mưa, hai tay xoay sau lưng, là động tác bắt đầu điệu nhảy.
Mộc Cát Sinh đứng cách đó không xa, y ôm ngang một cây đàn tỳ bà trong tay, đứng nhìn thiếu niên từ đằng xa rồi từ từ lên tiếng ——
Trong phút chốc tiếng mưa ngừng rơi, trời đất tĩnh lặng.
Ô Nghiệt xông tới ngăn cản âm binh, Tùng Vấn Đồng lao ra khỏi đám người, chạy như điên vào Quan Sơn Nguyệt bên cạnh con phố dài —— Đêm nay nhà hát mở hết toàn bộ cửa sổ và cửa ra vào, trên sân thượng chất đầy những giá đỡ đàn, đàn tỳ bà đàn cầm đàn sắt đều được bày lên.
Tùng Vấn Đồng chộp lấy một cây tỳ bà, vội vàng gảy dây cung trong cơn mưa lớn
Bình bạc vỡ tuôn đầy mạch nước.
Ngựa sắt giong, thét ngược tiếng đao [.
Mộc Cát Sinh nhìn Ô Tất Hữu.
Tùng Vấn Đồng nhìn Ô Tử Hư.
Tỳ bà réo rắt như tiếng xé lụa, bỗng có tiếng hát vang lên từ mặt đất ——
“Há nói chẳng có áo? Này áo tang điểm hồng hoa!
Há nói chẳng được câu? Này đốt thơ ngàn câu phú!
Há nói chẳng còn ca? Này trường ca thay nước mắt!
Há nói chẳng cùng chiến? Này hiếu chiến dốc toàn binh!”
Người trên trống nhảy múa vô cùng nhẹ nhàng, uyển chuyển nhưng cũng không kém phần dứt khoát.
Lúc thì mạnh mẽ như kiếm phá thế trận, lúc thì mềm dẻo như tơ lụa.
Sát khí cuồn cuộn cùng vẻ đẹp rung động lòng người hòa vào làm một, có chút nặng nề như sức nhổ núi hề, lại có chút nhẹ nhàng như hạc trắng dang rộng cánh.
Khi vũ công rút kiếm nhảy lên, không khí xung quanh dường như kết lại thành chất, toàn bộ vạn vật trên trời dưới đất cũng dần ngưng đọng theo.
Đây hoàn toàn không phải là một điệu múa bình thường, mà là tuyệt học khuynh thế của Âm Dương gia – Tướng Quân Na Vũ [5].
Âm Dương gia có thể điều khiển thần quỷ, thậm chí cầm Tẩu Cô Vọng trong tay có thể sai bảo Diêm Vương nghe lệnh.
Thế nhưng khi đối mặt với mấy vạn âm binh – đội quân khiến Thập điện Diêm Vương phải bất lực, cũng chỉ có mỗi điệu múa cổ xưa đã thất truyền mấy trăm của Âm Dương gia mới có thể đối phó —— “Tướng Quân Na Vũ đã thất truyền được mấy trăm năm rồi mà.” Ngày đó, Ô Tử Hư ở Thành Tây Quan, kinh ngạc nhìn Ô Nghiệt, “Lần cuối điệu Tướng Quân Na Vũ xuất hiện, là khi Lan Lăng Vương diễn tấu đại khúc Phá Trận nhạc trong quân đội.
Bà lớn, ngài vẫn còn nắm giữ tuyệt học này sao?”
“Gia đây sống ở Phong Đô gần được ngàn năm rồi, thứ gia có cũng không chỉ mỗi tuổi tác.” Ô Nghiệt tung quả cầu hoa lên, “Đã xem tạp kỹ ở chợ quỷ chưa? Điệu múa trên mười hai tầng bàn của gia đây thực ra chính là một đoạn trong điệu múa Tướng Quân Na Vũ.”
Na Vũ, còn được gọi là múa tế thần, người xưa sẽ đeo mặt nạ các vị thần, ngụ ý mời thần nhập thân và nhảy múa theo ý thức của thần, rồi từ đó thể hiện ý của thần với chúng sinh thiên hạ.
Sau này Âm Dương gia đột nhiên xuất hiện, tu tập thuật pháp thỉnh thần ngự quỷ, vì vậy đã đưa Na Vũ vào học thuật gia đình của Âm Dương gia, và lưu truyền qua hàng trăm đời.
Mà điệu múa nguy hiểm nhất đẹp đẽ nhất, chính là Tướng Quân Na Vũ.
Chiến trường là nơi vạn quỷ tụ hội, không thua kém gì Thành Tây Quan.
Năm đó tổ tiên của Âm Dương gia sáng tạo ra điệu Tướng Quân Na Vũ, chính là mượn sức mạnh của quân thần hóa giải oán khí trên chiến trường, một điệu múa làm tế, vạn quỷ phải hàng phục.
Nhưng quân thần vốn đã đánh giết vô số người, một khi múa điệu mời thần, tất sẽ bị đại sát đè người.
Trong suốt lịch sử các đời Vô Thường Tử cũng đã có mấy người chết bất đắc kỳ tử bởi vì múa điệu Tướng Quân Na Vũ.
Cuối cùng tuyệt học này dần dần thất truyền, và chưa từng xuất hiện lại trong vòng mấy trăm năm qua.
“Học điệu múa này, ngươi phải có ý chí muốn chết.” Ô Nghiệt đã từng nói với Ô Tử Hư rằng: “Khí thế sát phạt, ý định tung hoành, cái tâm kiêu ngạo, chí nguyện tìm chết.
Chỉ có như vậy, mới có thể múa được điệu múa tuyệt thế này.”
“Đương nhiên, gia đây cũng sẽ không đứng nhìn con cháu trong nhà lao vào chỗ chết.” Ô Nghiệt đột nhiên bật cười, “Thời Chiến Quốc có một nhạc công từng xem qua điệu múa này, vào giây phút lòng rung động đã soạn ra một khúc nhạc, tên là “Vô Y”, diễn tấu đệm nhạc cho bài múa, có thể giảm bớt sát khí trong vũ đạo.”
“Nhưng khúc nhạc này còn thất truyền sớm hơn điệu múa kia, gia cũng chưa từng nghe hết toàn bộ bản nhạc ấy, chỉ có thể dựa vào một vài đoạn được lưu lại từ ngàn năm trước, soạn ra một khúc khác.
Sau đó, trong lúc uống rượu với mọi người, ta hát khúc nhạc ấy lên, một người bạn rượu đã giúp ta điền vào những phần còn thiếu.”
“Khúc nhạc này là truyền thừa của Mặc gia, đến lúc đó âm binh bạo động thoát ra ngoài, mọi sự thắng hay bại thì đều phụ thuộc vào hai người các ngươi.”
Tùng Vấn Đồng dùng mười ngón tay gảy đàn cầm, tựa như thiên quân vạn mã đang xông pha chiến đấu, còn năm dây cung giống như năm cây giáo vàng cùng xuất trận.
Dưới ngón tay của hắn đều ẩn chứa sát khí, tiếng đàn như đao cắt ngang qua màn mưa, nhưng không thể kéo dài được lâu, dây đàn rất nhanh đã đứt phăng toàn bộ.
Cơ mà trên sân thượng Quan Sơn Nguyệt đã bày sẵn rất nhiều nhạc cụ, giá đàn xếp thành từng tầng từng tầng một, hắn đàn hỏng một cây đàn thì sẽ lập tức đổi sang một cây đàn khác.
Hắn cũng không quá giỏi về âm luật, thậm chí có một vài nhạc cụ mà hắn còn chưa từng chơi thử, nhưng mỗi khi hạ tay gảy đàn thì đều có thể gảy ra giai điệu —— Dì Triệu nói không sai, khúc nhạc này là một kiểu truyền thừa, nó đã dung nhập vào trong máu thịt từ lâu rồi.
Đây là khúc đầu tiên lấy sát ngăn sát – chỉ cần trong lòng mỗi người có một chiến trường, thì đều có thể nhớ kỹ giai điệu của nó!
An Bình đứng trong mưa, nhìn Mộc Cát Sinh hát vang ——
“Trong cơn say mấy lần nhìn kiếm? Chỉ còn thấy vô hạn phong lưu!
Trên sa trường mấy lần chinh chiến? Chỉ còn lại cốt vùi núi xanh!”
Tiếng đàn vang lên, Tùng Vấn Đồng vứt cây đàn cuối cùng xuống, rút đao xông tới, đập trống mà hát.
“Công danh lợi lộc toàn cát bụi, đúng sai thành bại tại một nét.
Ngư tiều nói, nước xưa phồn thịnh một thời, nay đây đã dải thây phơi muôn ngàn!”
“Hưng thịnh, dân chúng khổ.
Diệt vong, dân chúng khổ;
Thử hỏi thiên hạ ai khiển hưng vong?
Thiên thu vạn đại, trẻ con tội chi?”
– ——————-
Chú thích:
[1] Đêm qua trong ngọn đèn dần cháy, tiêu điều ảm đạm cùng gió mưa.
Gốc toàn bộ là 风也萧萧, 雨也萧萧, 瘦尽灯花又一宵 Phong dã tiêu tiêu, vũ dã tiêu tiêu, sấu tận đăng hoa hựu nhất tiêu: câu thơ trong bài “Thái Tang Tử · thùy phiên nhạc phủ thê lương khúc” của Nạp Lan Tính Đức
[2] Kháp ti pháp lang: Thời Nguyên gọi là Đại thực diêu (大食窑) hoặc Quỉ quốc khảm (鬼国嵌), mà người đời nay tục gọi là Cảnh Thái lam (景泰蓝).
Cách làm là dùng những sợi tơ đồng mảnh và nhỏ kết thành các dạng họa tiết gắn lên cốt bằng đồng, rồi trát đầy men pháp lang nhiều màu lên phần trong và ngoài các ô trang trí ấy, đưa vào lò nung đốt nhiều lần, cho đến khi bên ngoài món đồ phủ kín men pháp lam với độ dày thích hợp, thì đem mài nhẵn, rồi mạ vàng các đường chỉ đồng để hoàn chỉnh sản phẩm.
Thường được làm bằng đồng, kháp ti làm bằng vàng rất hiếm.
VD: chén rượu kháp ti bằng bạc của triều Nguyễn.
[3] Gốc là 既見君子, 不我遐棄 Ký kiến quân tử, Bất ngã hà khí: hai câu thơ trong bài thơ Nhữ phần (bờ sông Nhữ) 汝墳 của Khổng Tử.
Bài thơ nói về sự mong nhớ người yêu của người con gái bên sông Nhữ, thương người yêu đang phải chịu khổ sở, lao dịch dưới sự cai trị bạo tàn khốc liệt của “vương thất”.
[4] Bình bạc vỡ tuôn đầy mạch nước.
Ngựa sắt giong, thét ngược tiếng đao – Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị (Bản dịch của Phan Huy Thực)
[5] gốc là 将军傩舞 tương quân na vũ:
“Na” là nghi thức xua đuổi các loài quỷ mang bệnh đến.
Đây là một tập tục cổ được thực hiện lúc giao thừa.
ở Trung Quốc, nghệ thuật diễn xướng dân gian có na vũ 傩舞 là loại múa đuổi tà dịch.
Trong đó người diễn đều đeo mặt nạ gỗ và diễn lại tích truyện mời thần xua tà, ban phúc..