Hồng Bạch Song Hỉ

Chương 20: Chương 20



Editor: Kẹo Mặn Chát
Còn chưa dứt lời, Ô Tất Hữu đã vung chân đá văng ghế ra, đứng dậy rời đi, còn đập cửa “ầm ầm”.
Điện thoại di động bị ném vào trong nồi, làm một lượng lớn dầu bắn tung tóe, màn hình nhấp nháy vài lần rồi tối đen hoàn toàn.

Cả căn phòng chìm vào tĩnh lặng, chỉ còn nồi lẩu sủi bọt sôi sùng sục.
Điều mà Ô Tất Hữu vừa nói thật sự gây chấn động, khiến An Bình choáng váng đầu óc, lúc lâu sau mới tìm lại được giọng nói của mình, “Cậu ta nói thế…!là có ý gì?”
Mộc Cát Sinh nâng chén trà, mặt mày bình thản, “Ý trên mặt chữ.”
“Hả?!”
“Tôi không nhớ rõ.” Mộc Cát Sinh nhún nhún vai, “Trí nhớ của tôi có thiếu sót, mất đi một vài ký ức vô cùng quan trọng, cho nên có rất nhiều chuyện tôi không nắm rõ được tiền căn hậu quả.

Dựa theo lời con cháu nói, năm đó tôi phạm sai lầm, liên lụy đến rất nhiều người.”
“Ơn nghĩa sâu nặng chẳng thể đáp, người thầy người bạn biệt sinh tử.” Mộc Cát Sinh nhấp một ngụm trà, “Nào nhớ nổi chén rượu lúc cùng vui.”
“Lúc ăn cơm không nên nói mấy chuyện khó tiêu hóa.” Mộc Cát Sinh nói xong đặt chén trà xuống, thò đũa vào nồi lẩu cay gắp điện thoại di động ra, “Nồi lẩu này không thể ăn được nữa, để bọn họ thay nồi khác.”
Một nồi nước lẩu mới nhanh chóng được bưng lên, An Bình ăn mà chẳng cảm thấy mùi vị gì, Mộc Cát Sinh gắp cho cậu một miếng dạ dày, “Muốn biết gì thì hỏi, lúc ăn cơm không nên trưng ra vẻ mặt buồn rười rượi như thế.

Đừng giống đứa con gái xui xẻo của tôi có việc gì cũng giấu nhẹm trong lòng, đặt trên vai gánh nặng quá lớn, đáng đời không cao lên được.”
An Bình gắp miếng dạ dày lên ăn, vị cay xông thẳng vào xoang mũi, khiến cậu suýt chút nữa chảy nước mắt, “Bán tiên, tôi vẫn muốn hỏi thêm…!về chuyện ban nãy.”
“Tôi biết, tôi thực sự đã quên một chuyện rất quan trọng.” Mộc Cát Sinh rút một tờ giấy đưa cho cậu, “An Bình nhi, gần đây cậu mơ đến đoạn nào rồi?”
“Sài Thúc Tân, à không, Linh Xu Tử ở lại Ngân Hạnh thư trai.”
“Vậy thì sắp hết rồi.” Mộc Cát Sinh tính toán một chút, nói: “Lúc Tam Cửu Thiên đến là mùa đông, sang đầu năm là xuân tới, tôi chào từ biệt sư phụ rồi xuống núi.

Tôi nhớ là…!rời đi khoảng bốn năm.”
An Bình sửng sốt, “Sao lại đi?”
“Ra nước ngoài du học, rất phổ biến ở thời đại đó.” Mộc Cát Sinh mỉm cười: “Ngày trước bái vào sư môn, cha tôi đã nói với sư phụ, tu tề trị bình [1], tu thân chỉ là bước đầu tiên.

Tôi xuất thân từ phủ Mộc, dù sao cũng không thể ở lại đấy mãi tận hiếu trước gối sư phụ.”
An Bình chợt nhận ra, “Thảo nào anh chưa bao giờ sao chép bài tập tiếng Anh của tôi.”
“It was the best of times, it was the worst of times [2].” Mộc Cát Sinh đọc lên một đoạn tiếng Anh với giọng Oxford tương đối chuẩn, “Có thể cậu sẽ không mơ thấy ký ức bốn năm kia đâu, dù sao trong khoảng thời gian đó cũng không xảy chuyện gì, mà có cũng chỉ có một sự kiện.”
“Đó là vào năm thứ ba tôi ra nước ngoài, khi ấy tôi đang ở Moskva.

Trường tôi theo học được xây dựng cách sông Neva một cây số, lúc nhận được thư của lão Nhị thì đã vào mùa đông, bên bờ sông phủ đầy tuyết.” Mộc Cát Sinh nói: “Trong thư hắn viết, sư phụ đã qua đời.”
An Bình kinh ngạc đứng bật dậy, làm chén trà trên bàn bị hất đổ, tiếng chén sứ rơi vỡ vang lên, nước trà vương vãi khắp sàn.
“Chuyện cũ từ rất nhiều năm trước rồi, An Bình nhi, cậu phản ứng mạnh như vậy làm gì.” Mộc Cát Sinh rót lại cho cậu một chén trà, “Trước khi qua đời sư phụ đã lưu lại lời căn dặn.

Nói tôi có thể về nước chịu tang, nhưng qua đầu thất, nhất định phải rời đi.”
“Trung Quốc và Moskva cách nhau cả vạn dặm, chờ đến khi tôi nhận được thư của lão Nhị thì đầu thất cũng qua lâu rồi.

Mệnh lệnh của sư phụ không thể làm trái, vậy nên tôi cũng không về nước.

Cho đến khi hoàn thành việc học, tôi mới đến mộ phần của ông ấy khấu đầu lạy tạ.”
Mộc Cát Sinh nói xong lắc đầu, khẽ cười: “Tôi cũng đã phiêu bạt tha hương rất lâu.”
Dù có về thì sao kham nổi, những hồi tưởng lại chuyện buồn xưa.
Đếm xem có được mấy nhà, xa rồi vẫn được đoàn tụ người thân?
Mãi đến tận khi về nhà, An Bình vẫn còn cảm thấy mê man.

Cậu vội vàng rửa mặt nghỉ ngơi, nhưng lại trằn trọc mãi không thể ngủ được.
Cậu không hiểu.
Lúc Mộc Cát Sinh đưa cậu về nhà, dưỡng như cũng đã nhìn ra mối tâm sự ngổn ngang trong lòng cậu.

Y vỗ vai cậu, nói một câu, “Tất cả đều là chuyện của quá khứ, nằm mơ thôi mà, cứ coi như đang xem phim là được.”
Có thể là do ăn quá nhiều đồ dầu mỡ cay nồng, An Bình cảm thấy cổ họng khát khô cả nước, cậu đứng dậy pha một gói trà an thần mà Mộc Cát Sinh đưa cho.

Dù sao cũng không ngủ được, thôi thì bật đèn chiến đấu sự học, mở sách bài tập bắt đầu ôn bài.

Bài tập về nhà chồng chất như núi, học tập thực sự là một cách hiệu quả để thoát khỏi nỗi ưu tư muộn phiền, An Bình lấy ra một tờ giấy trắng, bắt đầu liệt kê dòng thời gian của lịch sử cận đại.

Năm 1937 sau Công Nguyên, năm thứ 26 của Trung Hoa Dân Quốc.
Chính phủ Mặt trận Bình dân Pháp bị buộc phải từ chức và tình trạng bất ổn chính trị ở Pháp tiếp tục kéo dài cho đến khi Thế chiến thứ II nổ ra.
Nam Tư đã ký một hiệp ước trọng tài và không xâm lược lẫn nhau với Ý, gia nhập phe Trục Rome-Berlin.
Tổng sản lượng công nghiệp của Liên Xô đứng đầu châu Âu và là cường quốc công nghiệp lớn thứ hai thế giới.
Khinh khí cầu Hindenburg của Đức gặp sự cố, kể từ đó khinh khí cầu rời khỏi sân khấu của hàng không thương mại.
Ngày 7 tháng 7, Nhật Bản phát động cuộc chiến tranh xâm lược toàn diện Trung Quốc.

Trung Quốc bắt đầu cuộc kháng chiến toàn dân.
Bóng đêm đen kịt, kim giây tích tắc dần trôi.

An Bình nhìn giấy trắng mực đen trước mặt, đột nhiên cảm thấy cơn buồn ngủ đang kéo đến, không ghìm được đặt bút xuống, chuẩn bị nằm sấp trên bàn nghỉ ngơi một lát.
Thế cuộc trôi theo dòng nước, kiếp người tựa giấc chiêm bao [3].
“Báo đây báo đây! Ngày 7 tháng 8, Hội nghị Quốc phòng sẽ được tổ chức!” Cậu nhóc bán báo đứng bên bến sông hét lớn, “Báo đây! Một tờ chỉ năm xu!”
Cảng là một trong những nơi náo nhiệt nhất của thành phố, tàu thủy vào cảng, còi hơi kéo dài, hành khách lên xuống tấp nập trên thang đứng.

Trong đó có một cô gái tân thời ăn mặc thời thượng xách theo vali da, dưới chân đi đôi giày cao gót vang lên những tiếng thanh thúy.

Cậu nhóc bán báo tinh mắt tiến tới chào đón, nhiệt tình nói: “Cô ơi, mua báo không ạ?”
Cô gái có vẻ đang vội vã, liên tục xua tay, “Không mua không mua, mau tránh ra.”
“Mua một tờ đi ạ, dạo gần đây không yên ổn cho lắm, tìm hiểu chút tin tức thời sự cho an tâm…”
“Vui lòng cho tôi một tờ báo.” Một bàn tay đột nhiên ngăn giữa hai người, cậu nhóc bán báo ngẩng đầu nhìn lên.

Đó là một thanh niên có dáng người mảnh khảnh, mặc bộ âu phục may bằng vải linen, trong tay xách một chiếc cặp da và một chiếc ô cán dài, “Cảm ơn cậu đã ủng hộ!” Cậu nhóc bán báo vội vàng lấy ra một tờ báo, “Một tờ năm xu ạ.”
“Không cần thối lại.” Thanh niên đưa cho cậu bé một đồng đại dương, rồi chỉ về phía cô bé bán hoa cách đó không xa, “Tôi nhớ cô bé kia là em gái cậu, đúng không? Tôi muốn một cành sơn trà đỏ, tặng cho vị tiểu thư này.” Nói xong mỉm cười với cô gái bên cạnh: “Trẻ con kiếm sống ở bến tàu cũng không dễ dàng gì, vội kiếm tiền nên có chút sỗ sàng, tiểu thư đừng trách tội.”
(*Vào thời kỳ Trung Hoa dân quốc, 1 đồng đại dương tương đương khoảng 200 – 400 tệ.)
Cậu nhóc bán báo sửng sốt, nhanh chân chạy tới đằng kia gói lại cành hoa sơn trà, đưa cho cô gái, “Xin lỗi chị, thật lòng xin lỗi chị!”
Cô gái chuyển giận thành vui, sắc mặt ửng đỏ, nhẹ nhàng nói cảm ơn với người thanh niên, sau đó nhận hoa rồi xoay người rời đi, lưu lại mùi hương nước hoa thơm ngát.
Cậu nhóc bán báo nhìn người thanh niên ra tay hào hiệp trước mắt, đang định mở miệng nói cảm ơn thì đối phương giơ tay vỗ thẳng một phát lên đầu cậu, “Mấy năm không gặp, sao Tiểu Phong Tử nhóc lại trở nên kém nhanh nhạy như vậy? Người vừa nãy là cô hai nhà ông chủ hãng tàu đấy.

Nhóc chắn đường người ta rồi, thế còn muốn kiếm cơm ở bến tàu nữa không?”
Tiểu Phong Tử bị vỗ lảo đảo một bước, sau đó kinh ngạc nhìn người thanh niên, “…!Thưa cậu là?”
“Là anh đây.” Người thanh niên tháo kính xuống, nhướng mày nói: “Mới mấy năm không gặp, đã không nhận ra anh rồi sao?”
Tiểu Phong Tử sửng sốt một lát rồi nhào mạnh tới, hét lớn: “Lão Tứ nhà họ Mộc?! Mộc Cát Sinh, thế mà anh đã về rồi!”
Hai người ôm chầm lấy nhau, Mộc Cát Sinh cao hơn cậu nhóc một cái đầu, Tiểu Phong Tử bám chặt vào người y không chịu buông tay, “Anh Mộc, vậy là anh đã về rồi…!Anh, mấy ngày nay anh không gội đầu à? Sao trông bết dầu thế?”
“Chán nhóc ghê, này gọi là keo xịt tóc.” Mộc Cát Sinh vỗ vai cậu, “Anh nhớ nhà nhóc mở tiệm may mà nhỉ? Sao lại chạy đến đây bán báo rồi?”
“Thời buổi khó khăn, làm ăn cũng không dễ.

Cách đây ít lâu ba em lại bị bệnh, chỉ có thể tạm thời đóng cửa hàng trước, em và em gái bèn ra ngoài kiếm vài đồng phụ giúp gia đình.” Tiểu Phong Tử nói xong sụt sịt mũi, “Anh Mộc, mấy năm nay em nhớ anh lắm.”
Khi Mộc Cát Sinh còn là thiếu niên, y có thể coi như là một hỗn thế ma vương, chỉ cần xuống núi, nhất định sẽ vào trong thành gọi bạn kéo bè làm loạn, y chẳng hề kiêu căng phách lối, có thể kết bạn với bất cứ ai.

“Mấy năm nay anh không có ở đây, trên đường cũng không còn vui vẻ như trước.

Ngay cả anh Tùng cũng không tìm người đánh nhau nữa.” Tiểu Phong Tử nói: “Mấy năm trước Ngân Hạnh trai chủ qua đời, tất cả mọi người đều đi phúng viếng, mà cũng không thấy anh quay về…”
“Không phải anh đây đã về rồi sao.

Là đàn ông mạnh mẽ, phải vững tâm, đừng cứ hở một tí lại đỏ vành mắt.” Mộc Cát Sinh buông cậu ra, nói: “Bác trai bị bệnh, sao lại không đến Sài thị thăm khám?”
“Dạ, được chính Sài công tử đến bắt mạch cho.

May mà có phòng thuốc của phủ Sài, chứ không cha em cũng chẳng thèm đi khám luôn.” Tiểu Phong Tử dụi mắt nói: “Anh, lần này anh về, sẽ ở lại bao lâu?”
“Không đi nữa.” Mộc Cát Sinh cười nói: “Buổi tối, bên chỗ anh Tùng của nhóc bày tiệc tẩy trần, ăn bao no, nhớ mang cả em gái nhóc đến.”
“Trong khoảng thời gian này em đều ăn chực ở nhà anh Tùng đó anh.” Tiểu Phong Tử ngượng ngùng gãi đầu, sau đó lại lo lắng nói: “Anh, mọi người đều nói sắp có chiến tranh rồi.

Anh không ở nước ngoài lánh nạn, giờ về làm gì?”
“Xem nhóc nói kìa.” Mộc Cát Sinh vỗ lên mặt cậu nhóc một cái không nặng không nhẹ, “Lá rụng về cội, đây là nhà anh, chẳng lẽ có chiến tranh anh lại không về?”
“Anh nói rất đúng.” Tiểu Phong Tử liên tục gật đầu, “Mà anh này, anh thật sự không đi nữa sao?”
“Không đi.” Mộc Cát Sinh nói: “Có chuyện gì thì đừng gắng gượng chống đỡ, cứ đến nói với anh bất cứ lúc nào cũng được.”
“Anh đã nói vậy thì em chẳng sợ gì nữa.” Tiểu Phong Tử nở nụ cười, “Anh, anh mới về, giờ định đi đâu? Nếu không em dẫn đường cho anh nhé?”
“Nhóc biến mợ đi, mấy năm không gặp coi anh thành dân mù đường rồi à?” Mộc Cát Sinh cười mắng một câu: “Muốn dẫn đường cũng được, xách rương cho anh nhóc, đến Quan Sơn Nguyệt.”
“Dạ vâng!” Tiểu Phong Tử ngầm hiểu, “Không hổ là anh Mộc, thật có tình có nghĩa, vừa trở về đã vội đi gặp người thương!”
“Gặp người thương cái gì.” Mộc Cát Sinh nhàn nhã nói: “Anh dẫn nhóc đến kỹ viện nghe hát.”
Bốn năm không gặp, cảnh cũ vẫn như trước, Quan Sơn Nguyệt lại mở rộng thêm hai tầng, hương thơm thoang thoảng khắp đại sảnh thiếp vàng.

Ban ngày kỹ viện không tiếp khách, chỉ mở như phòng trà để thiết đãi.

Lúc hai người vào cửa thì vừa hay đang biểu diễn một vở bình đàn.

Trên sân khấu kịch có hai cô gái đang ngồi một trái một phải, người cầm đàn tam, người ôm tỳ bà, ở giữa là một vị công tử đẹp tựa như ngọc, tay cầm quạt trắng, đang hát một đoạn «Văn Chiêu Quan».
“Nào lo được ngàn dặm phong sương ngàn bước khó ——”
Tiếng tỳ bà trong trẻo như châu ngọc, công tử trên đài hát chẳng ngừng, giọng hát nhẹ nhàng êm tai mang theo phong thái của một học giả.

Mộc Cát Sinh đặt một phòng bao, nhìn xuống dưới lầu cười nói: “Khách nữ ngồi kín cả bàn, tất cả đều đến để nghe kịch —— không hổ là giác nhi* nổi tiếng, làm các cô gái say mê đến mức tới hẳn kỹ viện nghe kịch, đúng là tuyệt đỉnh.”
(*Giác nhi: là danh xưng chỉ những nhân vật lớn, có danh tiếng, có tài nghệ xuất sắc trong giới hí khúc cổ)
Thanh quan* bên cạnh cười nhẹ dâng trà lên, “Giọng hát của ngài Ngô là hạng nhất ở đây, ngày bình thường muốn có một vé vào nghe cũng khó.

Hôm nay diễn buổi sáng nên hiếm lắm mới trống phòng riêng, thiếu gia đến ngay lúc này, có thể thấy đây cũng là duyên.”
(*Thanh quan: kỹ nữ chưa tiếp khách)
Mộc Cát Sinh nghe xong cười lớn: “Há nào chỉ có chút duyên này, còn đó mấy năm nợ nghiệt oan gia nữa đấy.”
Thanh quan nghe vậy chợt sửng sốt, che miệng nói: “Thiếu gia quen biết ngài Ngô sao?”
“Tôi đã gặp chị, chị có phải là người được dì Triệu tự tay dẫn dắt đúng không?” Mộc Cát Sinh nháy mắt với người khác, “Không nhận ra tôi sao?”
“Hầy, nhận ra mới là lạ đó.” Tiểu Phong Tử xen vào: “Nhìn cách ăn mặc Tây rởm của anh xem.”
Thanh quan nhìn y từ trên xuống dưới một phen, đột nhiên nhớ tới gì đó, kinh ngạc nói: “Ngài, ngài là Mộc thiếu gia?!”
“Làm khó chị rồi, vẫn còn nhớ rõ tôi.” Mộc Cát Sinh cười tủm tỉm nói: “Mấy năm ly biệt, chỉ còn cảnh xưa bạn cũ.

Dì Triệu làm ăn càng ngày càng tốt, đến cả lão Tam cũng có thể mời lên đài.”
Công tử hát kịch trên đài không ai khác chính là Ô Tử Hư.
Khoảng hơn hai năm trước, Mộc Cát Sinh ở châu Âu nhận được thư từ quê nhà.

Tùng Vấn Đồng không thích kể mấy chuyện thường ngày, từ trước đến giờ viết thư có mỗi dăm ba câu, chỉ nói những ý quan trọng.

Vậy mà lá thư năm ấy lại nhiều hơn mấy tờ giấy, viết một tràng giang đại hải chỉ về một chuyện —— Ô Tử Hư làm nghệ nhân Bình đàn ở Quan Sơn Nguyệt.
Đầu đuôi mọi chuyện cũng không có gì phức tạp.

Chả là Ô Tử Hư bị Tùng Vấn Đồng kéo đến Quan Sơn Nguyệt đánh bài, bị thua rỗng túi nhưng lại chẳng lo lắng gì cả.

Chẳng qua lần này, dì Triệu không cho viết giấy nợ rồi thả đi dễ dàng nữa, mà cố ép giữ người lại, kiên quyết phải đẩy lên đài hát mấy khúc.
Ô Tử Hư có một giọng hát rất hay rất đặc biệt, vừa cất tiếng là được cả hội trường reo hò khen ngợi, dì Triệu lấy đó làm lý nên không buông tha, bảo anh ở lại Quan Sơn Nguyệt hát kịch trả nợ.

Chẳng những tự mình dạy Ô Tử Hư luyện giọng, lại còn mở thêm phòng hát vào ban ngày.

Sau vài buổi mở hát, thanh danh đã truyền ra xa, cả thành đều biết Quan Sơn Nguyệt có một nghệ nhận họ Ngô mới đến, âm sắc rất đẹp, một vé khó cầu.
Chẳng mấy chốc đã đủ tiền trả nợ, nhưng khán giả lại không muốn đi, buộc dì Triệu phải đích thân tới phủ Ô mời người.

Ô Tử Hư từ chối không được, thường xuyên qua lại rồi làm nghệ nhân hát luôn ở đấy.

Xưa nay, Âm Dương gia đều không để ý đến chuyện dương gian, trong tộc Ô thị cũng không có ai quản gia chủ trẻ đi chạy hát mỗi ngày.

Mấy năm dần trôi thanh danh càng ngày càng thịnh, bạn diễn đều gọi anh là “Ngọc diện lang quân”.

“Trên sân khấu là lang quân nhà ai mà lại phong lưu đến vậy?” Mộc Cát Sinh vừa cười vừa lắc đầu, “Tuy rằng đã nghe lão Nhị kể từ lâu, nhưng tận mắt nhìn thấy vẫn sợ hết hồn.

Ai có thể nghĩ tới đây là lão Tam mấy năm trước gặp con gái là đỏ mặt?”
“Vài ngày trước có nghe anh Đồng nói qua, sắp tới Mộc thiếu gia sẽ trở về.” Thanh quan mặt mày hớn hở, đã không thể ngồi yên được nữa, “Đều là người nhà mình, cũng đừng ngồi trên lầu nữa, tôi dẫn ngài xuống hậu trường nhé?”
“Vậy thì phiền chị rồi.” Mộc Cát Sinh đứng dậy nói: “Mấy năm không gặp, phải đi chào hỏi dì Triệu thôi.”
Ô Tử Hư ở trên sân khấu hát xong một vở, dừng đàn tạm nghỉ một lúc.

Anh vén rèm lên đi vào hậu trường, lại trông thấy mọi người đang vây quanh tầng tầng lớp lớp ở một chỗ, giọng nói của dì Triệu cất cao lên, “Ai ui con của ta, con thật hiếu thuận, không uổng công dì thương con!”
“Đây là loại mỹ phẩm mới nhất đang thịnh hành ở Pháp.

Con không hiểu biết lắm, nên chỉ mua mấy loại mà bạn học giới thiệu.” Trong đám người truyền đến một tiếng cười, “Dì Triệu dùng trước đi, nếu dì thích, con lại nhờ bạn gửi tới.”
Giọng nói của thanh niên tuy trầm ổn hơn lúc trước một chút, nhưng Ô Tử Hư lại quen thuộc với tiếng cười của đối phương.

Lúc này anh vui mừng, lớn tiếng nói: “Lão Tứ! Ông về khi nào vậy?”
“Lão Tam! Ông hát xong rồi à?” Mộc Cát Sinh đứng lên, đẩy đám người đi ra, hai người lập tức ôm lấy nhau, “Được nha thằng nhóc này.” Mộc Cát Sinh cười to vỗ vỗ người đối phương, “Cách biệt lâu ngày là phải nhìn nhau bằng ánh mắt khác.

Vài năm không gặp, ấy thế mà đã trở thành giác nhi nổi tiếng rồi!”
“Góp vui thôi, với cả khán giả cũng nguyện ý ủng hộ, so với những người xuất thân chính quy còn kém xa.” Ô Tử Hư cực kỳ vui vẻ, luôn miệng nói: “Về lúc nào thế? Tôi nghe lão Nhị nói là ông mua vé tàu muộn, không phải còn mấy ngày nữa mới về sao?”
“Lừa hắn đấy, hắn mà biết hôm nay tôi về thì sẽ đến bến tàu chặn người từ sớm luôn đó.” Mộc Cát Sinh nháy mắt, “Mà tôi đây lại gấp gáp muốn tới nghe ngài Ngô hát kịch, ngài không thấy sao?”
“Ông bơn bớt đi, vừa về đã trêu tôi.” Ô Tử Hư đẩy y một cái, sau lại kéo về, “Tiệc tẩy trần buổi trưa không kịp chuẩn bị rồi, chờ tối nay bày cho ông mấy bàn, anh em tụ họp một chỗ.

Ông đợi tôi hát nốt một vở nữa, rồi ta đi tìm lão Nhị ké bữa cơm ha.”
“Tuyệt vời.” Mộc Cát Sinh vỗ tay, “Ở nước ngoài ngày nào cũng ăn thịt nguội, tôi chỉ ngóng đến lúc trở về để ăn sạt nghiệp lão Nhị thôi.”
“Ông thật là.” Ô Tử Hư cười bất lực: “Không biết lão Nhị sẽ mừng rỡ đến cỡ nào đây.

Ông mà muốn một bàn Mãn Hán Toàn Tịch thì hắn cũng vui vẻ xuống bếp nấu cho ông.” Nói xong, anh cẩn thận quan sát y từ trên xuống dưới một phen, “Ông ăn mặc thế này trông giống tây thật đấy, đồ tây cả à?”
“Thôi đừng nhắc đến, ông có thừa bộ quần áo nào không, cho tôi mượn một bộ trước đã.” Mộc Cát Sinh xua tay, “Dì Triệu vừa nhìn thấy tôi thì đã gọi tôi là Tây rởm.”
“Đúng là trông rất rởm.” Ô Tử Hư nhìn y cười nói: “Nhưng mà này lão Tứ, ông cao lên kha khá rồi, không biết ông mặc vừa đồ của tôi không nữa.”
“Không vừa thì đổi!” Dì Triệu cao giọng, nói: “Đem bộ trường bào màu xám bạc mới làm ra đây!” Nói xong quay sang cười với hai người: “Mấy ngày trước vừa mới đưa tới một bộ trường bào.

Vài ngày nữa Tiểu Ngô có một vở «Tam Tiếu», một vở kịch hay chơi cùng một cây đàn tam đại, mặc bộ áo này rất hợp để lên diễn, thế mà lại để nhóc con được hời.”
“Dì Triệu thương con thật đó.” Mộc Cát Sinh nhớ tới một chuyện, hỏi Ô Tử Hư: “Ông hát vở gì tiếp theo?”
“Vẫn là «Văn Chiêu Quan».” Ô Tử Hư nói: “Sao, muốn nghe vở nào?”
“Năm đó ông tiễn tôi, đứng ở bến tàu hát một khúc «Trường Đình Tiễn Biệt».” Mộc Cát Sinh nói ngay: “Bây giờ bạn cũ đi tây đã về, vậy hát «Gặp Gỡ» đi.”
“Được luôn, tôi vẫn nhớ năm đó ông thích mỗi «Tây Sương Ký».” Ô Tử Hư đáp lại, “Vừa hay quần áo cũng đã đổi, cùng tôi lên sân khấu đi.”
“Vậy không được rồi, tôi không quen hát bình đàn, chỉ biết vài câu côn khúc thôi.” Mộc Cát Sinh từ chối, “Dưới sân khấu đều là khách đến nghe kịch, sao có thể nói đổi là đổi.

Coi chừng người ta trả vé lại đó.”
“Không sao.” Dì Triệu cười tủm tỉm nói: “Dì làm chủ cho con, cứ thoải mái mà hát.”
“Dì ruột của con ơi.” Mộc Cát Sinh liên tục xua tay, “Con ở nước ngoài bao nhiêu năm, đã quên hết sạch âm điệu từ lâu rồi.”
“Đừng hòng lừa tôi, lúc trước ông còn bảo lão Nhị gửi đĩa nhạc tới cho ông đấy.” Ô Tử Hư nói: “Đừng cho rằng tôi không biết.

Lúc trước ông với lão Nhị cứ vài ba hôm lại đến Quan Sơn Nguyệt nghe kịch, ônh hứng thú tới mức đổi chỗ với thanh quan đẩy người ta xuống sân khấu —— Nghe đâu ông còn gảy đàn tam cho Linh Xu Tử nghe nữa đúng không?”
Mộc Cát Sinh nói: “Không thoát được rồi, nhất định là lão Nhị bán tôi.”
“Ngày lành cảnh đẹp, tâm thưởng ý vui.

Sai nhịp thì tôi đỡ cho ông.” Ô Tử Hư cười lên một tiếng: “Đến đây nào quan nhân ——”
Ngày trước, Mộc Cát Sinh bị trêu đùa gọi là công tử bột, ở Ngân Hạnh thư trai chẳng học được bao nhiêu lục nghệ bát nhã, thế mà lăn lộn trong chốn phong nguyệt lại thành thạo tứ thanh ngũ âm.

Ngân Hạnh trai chủ thích côn khúc, mỗi dịp lễ tết đều sẽ bảo y hát mấy đoạn, đặc biệt là «Tây Sương Ký», cười gọi y là “Mối tình si của nợ phong lưu”.
Mộc Cát Sinh thay trường bào xong, hai người bắt đầu phân vai, Ô Tử Hư xướng Trương Sinh, Mộc Cát Sinh xướng Hồng Nương, lại tìm một thanh quan giả làm Oanh Oanh, “Hôm nay nô gia thật may mắn.” Thanh quan cười khanh khách nói: “Lại gặp được hai vị lang quân xinh đẹp.”
Trên sân khấu mở màn bằng tiếng đệm đàn, Oanh Oanh và Trương Sinh gặp nhau ở điện Phật.

Trước khi rời đi vội liếc ánh mắt, trước khi bệnh tương tư dần đau tận xương, chỉ nghe Trương Sinh nói: “Ôi, ngờ đâu trong chùa lại gặp được thần tiên —— chính là đã gặp được duyên nợ kiếp xưa!”
“Trách trời, trách trời sao chẳng chiều người, làm khuây chẳng được, đứng lười chẳng đang.” Hồng Nương cười tươi lên tiếng: “Tiểu thư ơi, chăng hay cô đang nghĩ hươu, tính vượn trăm đường?”
“Này xem mắt hoa miệng những lời nghẹn, thần hồn tơi tả bay xa lưng trời.” Trương Sinh gấp quạt trong tay, “Ôi chao ôi, ta có chết cũng đáng ——”
Khúc «Gặp Gỡ» cũng không tính là dài, nhưng hai người hứng khởi, bất giác hát đến tận giữa trưa.

Khán giả đã rời đi gần hết, dưới ghế ngồi chỉ còn một người ở lại, người nọ nhẹ nhàng nói: “Vừa về đã vội lên sân khấu hát hí khúc, cái nết gì vậy?”
Mộc Cát Sinh vừa mới vén rèm lên, nghe nói vậy bèn dừng bước, quay đầu nhìn lại.

Một giây sau y nhào ngay xuống dưới sân khấu, “Lão Nhị! Ông đến từ lúc nào thế?”
“Đến lâu rồi, xem cậu hát say mê nhập vai quá, cả buổi cũng không nhận ra tôi đã tới.”.

Truyện Võng Du
“Vậy còn không phải là vì ông càng ngày càng đẹp sao.

Tôi còn tưởng rằng ngồi dưới sân khấu là thiên tiên nhà ai đấy.”
“Bớt xàm.” Tùng Vấn Đồng mặc một bộ ái dài đỏ thẫm, thân hình cao ráo thon dài.

Hắn đưa tay vỗ một phát lên đầu Mộc Cát Sinh, “Keo vuốt tóc xịn đó, đồ tây à?”
“Đừng làm rối đừng làm rối, chăm chút mất cả buổi sáng đấy.” Mộc Cát Sinh vuốt tóc một cái, “Tới đúng lúc lắm, đang nói sẽ đi ăn ké của ông đây —— Buổi trưa ăn gì?”
“Chờ lão Tam ra đây đã.” Tùng Vấn Đồng đứng dậy, vén vạt áo dài lên: “Rồi tôi dẫn cậu đến tiệm ăn cơm.”
Tùng Vấn Đồng từng đề cập tới trong thư rằng, hắn có mở một tiệm lẩu, đặt tên là “Nghiệp Thủy Chu Hoa”.
Hắn giỏi nấu nướng, lại thích ăn cay, nước cốt lẩu mà hắn nấu đều có thể xưng là ngon đệ nhất, mới khai trương không lâu mà đã khó đặt bàn.

Gần đến nơi, Mộc Cát Sinh đã có thể ngửi thấy mùi hương thơm phức từ xa, “Tôi nhớ là đông chí mỗi năm ông đều thích nấu lẩu, xào ớt chuông với gừng tỏi, lại cho thêm ít mỡ bò.

Yhơm đến mức khiến chú tiểu trong chùa Bạch Thủy phải thức dậy rung chuông giữa đêm khuya.”
“Lão Ngũ không ăn cay, sau khi cậu ta tới thì cũng nấu ít đi.” Tùng Vấn Đồng dẫn người vào trong tiệm, đi thẳng một đường lên lầu hai, vào một gian phòng riêng, “Muốn ăn gì tự gọi.”
“Ô hô.” Ô Tử Hư nghe vậy nở nụ cười: “Nay ông chủ rộng rãi ghê nhỉ.”
“Nói cứ như tôi đang lừa tiền của cậu vậy, cũng không biết là ai dăm ba hôm lại đến đây ăn chực đâu.” Tùng Vấn Đồng liếc mắt nhìn anh, “Chiêu đãi người sống là cậu thì thôi, thế mà yến hội Phông Đô cũng dẫn đến chỗ tôi.”
“Vậy tôi không khách khí nữa.” Mộc Cát Sinh đặt quyển thực đơn xuống, xắn tay áo lên nói: “Chiếu theo thực đơn cho tôi một quyển, một món cũng đừng thiếu.”
– ——————-
Chú thích:
1.

Tu tề trị bình: tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ
– Tu thân: luôn nghiêm khắc với bản thân mình, sửa chữa những thiếu sót, không bảo thủ để nhận rõ sai sót nhằm hoàn thiện bản thân.
– Tề gia: làm cho gia đình mình tốt đẹp, tề chỉnh, có nề nếp, gia phong.
– Trị quốc: lo toan việc nước, cai trị đất nước cho có kỷ cương, phép nước.
– Bình thiên hạ: khiến cho thiên hạ thái bình, lòng người quy thuận.
Các cụ xưa cho rằng, trước phải “tu thân” thì mới có thể “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”.)
2.

It was the best of times, it was the worst of times.

— “A Tale of Two Cities” của Charles Dickens
3.

Thế cuộc trôi theo dòng nước, kiếp người tựa giấc chiêm bao.

—— “Ô Dạ Đề” của Lý Dục (bản dịch của Nguyễn Chí Viễn)
4.

“Ơn nghĩa sâu nặng chẳng thể đáp, người thầy người bạn biệt sinh tử.”
“Nào nhớ nổi chén rượu lúc cùng vui.”
“Tôi cũng đã phiêu bạt tha hương rất lâu.”
“Dù có về thì sao kham nổi, những hồi tưởng về chuyện buồn xưa.”
“Đếm xem có được mấy nhà, xa rồi vẫn được đoàn tụ người thân?”
Những câu thơ trong hai bài”Kim Lũ Khúc” của Cố Trinh Quan
5.

“Ôi, ngờ đâu trong chùa lại gặp được thần tiên —— chính là đã gặp được duyên nợ kiếp xưa”
“Trách trời, trách trời sao chẳng chiều người, làm khuây chẳng được, đứng lười chẳng đang.”
“Tiểu thư ơi, chăng hay cô đang nghĩ hươu, tính vượn trăm đường?”
“Này xem mắt hoa miệng những lời nghẹn, thần hồn tơi tả bay xa lưng trời.”
Những câu hát kịch Tây sương ký được trích ra rừ bản dịch của Nhượng Tống..


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.