Ngoại truyện: Thúc tu
Băng lạnh tan, cỏ xuân xanh mướt.
Chợ Tây, Phiêu Miểu các.
Bạch Cơ thấy trời dần ấm lên, bảo Nguyên Diệu và Ly Nô cất lò sưởi đi, chỉ để lại lò tay bằng đồng hoa văn để ứng phó với thời tiết lúc ấm lúc lạnh. Rảnh rỗi, Bạch Cơ lại một mình xuống kho dưới giếng kiểm kê đồ đạc, xem sau một mùa đông dài, kho có thiếu gì hoặc thừa gì không.
Nguyên Diệu đang dọn dẹp lò sưởi trong phòng, sắp xếp những đồ vật mùa đông không cần dùng sau xuân, dự định chuyển lên phòng chứa bên cạnh kho trên tầng hai. Hắn bận rộn cả buổi, không thấy Ly Nô, bèn chạy vào bếp gọi: “Ly Nô lão đệ, đến giúp ta một tay, ta không thể tự mình mang cái lò sưởi này lên tầng hai được.”
Một con mèo đen đang nhảy nhót trong bếp, dưới đất đặt hơn mười cái bình lọ, trong cái bình mở nắp lộ ra một cái đuôi cá. Nguyên Diệu không nhịn được hỏi: “Ly Nô lão đệ đang làm gì vậy?”
Mèo đen thấy Nguyên Diệu, thở dài nói: “Mọt sách, mùa xuân đến nhanh quá.”
Nguyên Diệu ngạc nhiên: “Ngươi nói gì vậy?”
Mèo đen lo lắng: “Tháng chạp năm ngoái ta muối mười tám bình cá, còn hơn một nửa, mùa xuân đã đến. Đêm qua khi ngủ, ta nghe thấy tiếng băng tan, ta nghĩ trên chợ đã có cá tươi bán, rất muốn đi mua nhưng cá muối này chưa ăn hết, thật lo lắng!”
Nguyên Diệu toát mồ hôi nói: “Ai bảo Ly Nô lão đệ mùa đông phải muối nhiều cá như vậy…”
Mèo đen nói: “Mùa đông giá rét, băng tuyết phủ sông, không muối nhiều sẽ không có cá ăn. Ngươi lại ăn nhiều, mỗi ngày ăn không ít.”
“Đi! Ta đâu phải đồ ăn nhiều!” Nguyên Diệu tức giận nói.
Mèo đen nói: “Mọt sách mau nghĩ cách cho ta.”
Nguyên Diệu nghĩ một lúc, nói: “Ly Nô lão đệ, cá muối của ngươi rất ngon, hay chọn một số cái đẹp gói vào hộp quà, tặng cho Thập Tam Lang, A Thử, Đồi Mồi cô nương nếm thử. Đúng rồi, còn có An Thiện Hòa tiên sinh dạy ngươi thổi sáo cũng có thể tặng ít. Dù ngươi đã ra nghề, mỗi dịp lễ tết, gửi ít lễ vật cũng thể hiện sự lễ độ, không quên ơn thầy.”
Mèo đen mắt sáng lên, nói: “Hóa ra đồ ăn không hết có thể đem làm quà, mọt sách thật thông minh!”
Nguyên Diệu vội nói: “Ta đâu nói đem đồ ăn không hết làm quà, chỉ là thấy cá muối này ngon, lại tình cờ chưa ăn hết, có thể đem làm quà.”
“Không phải giống nhau sao? Cũng là đem đồ ăn không hết đi tặng!” Mèo đen vọt ra khỏi bếp, đi tìm hộp quà trong kho.
Nguyên Diệu đứng tại chỗ suy nghĩ một lát, gãi đầu nói: “Vẫn cảm thấy có gì đó không đúng…”
Nguyên Diệu quay lại trong phòng, thấy lò sưởi dưới đất mới nhớ mục đích tìm Ly Nô. Nhưng Ly Nô bận rộn gói cá muối làm quà, Nguyên Diệu không dám làm phiền.
Nguyên Diệu đang nhìn Ly Nô cột nơ hộp quà bên cạnh, bỗng nghe có khách đến ngoài sảnh, hắn vội đi ra đón.
Trong sảnh, bên cạnh kệ hàng, đứng một con chim mang bọc vải thô. Nhưng nhìn kỹ, không phải là vịt vì con chim này lớn hơn vịt, đuôi có lông xám ngũ sắc, trên đầu còn có một sợi lông màu sắc sặc sỡ.
Nguyên Diệu ngạc nhiên nhưng vì đã quen với các khách hàng kỳ lạ, nhanh chóng lấy lại bình tĩnh.
Nguyên Diệu cười nói: “Vị khách này, ngài muốn mua gì?”
Con chim gập chân, lễ phép nói: “Ta không đến mua đồ. Xin hỏi, có phải công tử Nguyên Diệu ở Phiêu Miểu các không?”
Nguyên Diệu nói: “Đúng là tiểu sinh.”
Con vịt nghe thấy, vô cùng kích động, nói: “Hóa ra ngài là Nguyên công tử! Tiểu sinh đặc biệt đến tìm ngài.”
“Ngươi tìm tiểu sinh làm gì vậy?” Nguyên Diệu cảm thấy bối rối.
Con vịt lập tức biến thành một thiếu niên mười ba, mười bốn tuổi mặc áo xám. Thiếu niên có đôi mắt tròn, miệng hơi bẹt, nom mập mạp và đáng yêu.
Thiếu niên áo xám cúi đầu chào Nguyên Diệu, cười nói: “Tiểu sinh tên Tư Phong, theo lệnh của cha, không quản ngàn dặm xa xôi, từ Tương Châu đến đây để bái sư học thơ phú với Nguyên công tử.”
Nguyên Diệu hỏi: “Lệnh tôn là ai? Tiểu sinh không nhớ đã quen biết Lệnh tôn, tại sao ông ấy lại bảo ngươi tìm tiểu sinh học thơ phú?”
Tư Phong nói: “Ngài không biết cha tiểu sinh cũng không sao, cha tiểu sinh biết ngài. Ông ấy thường thấy ngài ngày đêm miệt mài đèn sách, ngâm thơ viết phú, rất khâm phục học vấn của ngài. Tiểu sinh cũng học chữ được vài năm rồi nhưng mãi không học được thơ phú, cha tiểu sinh nhớ tới ngài, nghe nói ngài ở Phiêu Miểu các nên cố ý bảo tiểu sinh đến Trường An bái sư.”
Nguyên Diệu đổ mồ hôi lạnh, hỏi: “…Ngươi thực sự đến từ Tương Châu sao?”
Tư Phong nói: “Đúng vậy. Cha tiểu sinh nói thầy xa quê đã hai năm, nghĩ rằng chắc thầy nhớ quê, còn đặc biệt bảo tiểu sinh mang một số đặc sản Tương Châu cho thầy.”
Nguyên Diệu nói: “Đừng gọi tiểu sinh là thầy vội, tiểu sinh còn chưa hiểu rõ chuyện gì xảy ra.”
Tư Phong cúi đầu nói: “Vâng, thưa thầy.”
Nguyên Diệu đổ mồ hôi lạnh.
Tư Phong tháo bọc vải thô, đặt lên quầy, mở ra. Bọc vải chứa một bình sành nhỏ kín, một bó thịt heo khô, và một gói giấy dầu buộc bằng sợi dây đỏ.
Tư Phong nói: “Bình nhỏ này chứa rau Khổng Minh. Thịt heo khô là từ heo hương đen Tương Châu. Gói giấy dầu chứa một chút tương bán hạ*. Món quà nhỏ bé này không đáng kể, mong thầy nhận cho.”
*Tên một loại thuốc, đặc sản của Tương Châu.
Nguyên Diệu thấy đúng là đặc sản quê nhà, nỗi nhớ quê hương chợt tràn ngập trong lòng, không kìm được muốn rớt nước mắt.
Ly Nô vừa lúc mang hộp quà đi qua sảnh, chuẩn bị ra ngoài tặng quà. Nó đã nghe được phần lớn câu chuyện khi đang gói quà trong phòng, thấy Nguyên Diệu nhìn bọc quà sắp khóc, nói: “Mọt sách khóc cái gì? Đồ ăn không hết đem đi tặng quà, đây đều là đồ ăn thừa của nhà nó, có gì mà khóc?”
Tư Phong nghe vậy, tức giận nói: “Ngươi là con mèo đen nào mà nói năng như vậy? Nhà ta không bao giờ ăn đồ khói lửa, những thứ này là thúc tu* là cha ta cố ý chuẩn bị làm quà cho thầy!”
* Xâu, bó thịt khô. § Ghi chú: Ngày xưa đến chơi đâu mang theo để làm quà. Học trò đến xin học cũng mang theo biếu thầy làm lễ, gọi là “thúc tu” 束脩. Vì thế nên đời sau gọi những bổng lộc của thầy giáo là “thúc tu”, có khi gọi tắt là “tu”. ◇Luận Ngữ 論語: “Tự hành thúc tu dĩ thượng, ngô vị thường vô hối yên” 自行束脩以上, 吾未嘗無誨焉 Ai dâng lễ để xin học thì từ một xâu thịt khô trở lên, ta chưa từng (chê là ít) mà không dạy.(từ điển hán nôm)
Nguyên Diệu lau nước mắt, nói: “Ly Nô lão đệ không nên nói bậy, một nắm đất quê hương còn quý hơn vàng. Tư Phong mang món quà này từ xa đến, đó là tấm lòng chân thành của cha hắn, tiểu sinh rất cảm động.”
“Chậc! Ta không muốn nghe các ngươi nói nữa, ta đi tặng quà đây!” Ly Nô mang hộp quà, chạy nhanh ra ngoài.
Tư Phong mong mỏi nói: “Thưa thầy, thầy có chấp nhận tiểu sinh không?”
Nguyên Diệu nói: “Nếu ngươi không chê tiểu sinh tài mọn học ít, hãy cùng tiểu sinh nghiên cứu thơ phú nhé.”
Tư Phong vui vẻ nói: “Tốt quá! Cảm ơn thầy!”
Tư Phong lấy một ấm trà, coi trà như rượu, kính Nguyên Diệu, coi như đã thực hiện lễ bái sư.
Dù Nguyên Diệu hoàn toàn không nhớ cha của Tư Phong cũng không biết Tư Phong là gì nhưng vẫn nhận học trò từ ngàn dặm xa xôi đến bái sư này.
Bạch Cơ biết Nguyên Diệu nhận Tư Phong làm học trò cũng không nói gì, chỉ dặn đừng làm ảnh hưởng đến việc kinh doanh của Phiêu Miểu các ban ngày, Tư Phong chỉ được đến học vào buổi tối.
Tư Phong vui vẻ đồng ý.
Vẫn còn sớm, Tư Phong nói sẽ trở lại vào buổi tối, rồi cáo từ.
Nguyên Diệu lo lắng Tư Phong xa nhà, ở Trường An không quen biết ai, không có chỗ ở, muốn Bạch Cơ cho phép để hắn ở sân sau của Phiêu Miểu các, dù sao một con vịt cũng không chiếm nhiều chỗ.
Bạch Cơ cười nói: “Không phải là không cho hắn ở, mà là Phiêu Miểu các không phù hợp với hắn. Hắn không cần lo lắng, trong hoàng cung Trường An sẽ có chỗ cho hắn.”
Nguyên Diệu đoán, có lẽ Tư Phong là loài chim thích nước, cần ở gần ao hồ, Phiêu Miểu các không có ao hồ nên không phù hợp. Hoàng cung Trường An có địa thế thấp, có ao hồ để hắn ở. Võ hậu chủ yếu sống ở Đại Minh cung phía đông bắc, hoàng cung Trường An đã rất hoang tàn, Tư Phong ở đó sẽ an toàn và tiện lợi cho việc học.
Đến bữa tối, Nguyên Diệu thấy trên bàn vẫn là cá muối, bèn lấy rau Khổng Minh và thịt heo khô mà Tư Phong mang đến ra làm món ăn.
Nguyên Diệu vừa ăn vừa khóc, nỗi nhớ quê hương không ngừng trỗi dậy.
Ly Nô ăn một miếng rau Khổng Minh, nhổ ra và nói: “Meo! Đây là món gì vậy? Mặn chết đi được!”
Nguyên Diệu vừa khóc vừa nói: “Ly Nô lão đệ không hiểu, đây là hương vị của nỗi nhớ quê hương…”
Ly Nô ngơ ngác hỏi: “Nỗi nhớ quê hương là mặn đến đắng sao?”
Bạch Cơ gắp một miếng cá muối, nói: “Trước đây không thấy, hôm nay mới nhận ra cá muối này cũng ngon. Nỗi nhớ quê hương gì chứ, đều đắng nghét.”
Đến tối, Tư Phong đúng giờ đến, Nguyên Diệu đặt hai chiếc bàn gỗ dưới hành lang sân sau, bày bút mực giấy nghiên, thắp bảy ngọn đèn ngọc thụ, dưới ánh trăng mờ, bắt đầu dạy Tư Phong thơ phú.
Bạch Cơ ngồi không xa, uống rượu ngắm trăng, nhìn Nguyên Diệu truyền đạo dạy học cho Tư Phong. Ly Nô thì lăn lộn trên bãi cỏ, tự vui vẻ.
Sau vài lần thử thách, Nguyên Diệu phát hiện Tư Phong tuy có thể đọc và viết nhưng về thơ phú thì hoàn toàn không biết gì. Nguyên Diệu đành phải viết một bài thơ ngũ ngôn đơn giản nhất, để Tư Phong thưởng thức.
“Xuân chẩm mộng tân từ, trúc diện lục tang chi.
Hoa lạc tàn dương lý, bất tự khứ niên thì.”*
*Gối mùa xuân mơ những từ mới, chiếu tre xanh cùng cành dâu.
Hoa rơi trong ánh chiều tà, không giống như năm ngoái.
Tư Phong đọc xong một lượt, đôi mắt tròn trĩnh có hơi đờ đẫn, nói: “Thưa thầy, bài thơ này viết về mùa xuân.”
Nguyên Diệu cười nói: “Đúng vậy, là mùa xuân. Ngươi thử xem lại cặp đối và vần của bài thơ này, có cảm nhận gì không?”
Tư Phong đọc lại một lần nữa, ánh mắt càng thêm đờ đẫn, nói: “Không biết, không hiểu.”
Nguyên Diệu đổ mồ hôi lạnh, nói: “Hay là, để tiểu sinh dạy ngươi về tứ thanh bát bệnh trước nhé. Thơ phú mênh mông như biển cả, đẹp đẽ như sao trời, rất đáng để học.”
* Tứ thanh bát bệnh: Yêu cầu về thanh luật được phát hiện và áp dụng trong sáng tác thơ ca thời Nam Bắc triều.
“Vâng, thưa thầy.” Tư Phong ngơ ngác đáp.
Thế là, Nguyên Diệu bắt đầu dạy Tư Phong từ căn bản về thanh điệu, từng chút từng chút một, dạy ngươi cách phối hợp bình trắc, nổi chìm, luyện từng chữ từng câu.
Tư Phong tuy vụng về nhưng học rất chăm chỉ.
Bạch Cơ nghe một hồi, có hơi hiểu ra, lắc đầu ngâm:
“Đắm chìm trong sách vui thú Thần thế,
Một chén rượu thanh thiên trong bình.
Nhớ ngày nào gió thổi hoa rơi lối nhỏ,
Nay lạnh lùng trong các, nghe mưa ngủ say.”
Nguyên Diệu ngẩng đầu nói: “Cặp đối khá tốt nhưng thanh luật không đúng.”
“Hừ!” Bạch Cơ cúi đầu uống rượu.
Ly Nô cũng lắc lư đầu ngâm:
“Một con mèo, hai con mèo, ba con bốn con năm con mèo, cùng nhau nhảy nhót. Mọt sách, bài thơ này của ta thế nào?”
“Chẳng ra gì cả.” Nguyên Diệu nói.
Ly Nô không vui.
Từ đó, mỗi khi Nguyên Diệu không ra ngoài, Tư Phong đều đến Phiêu Miểu các học hai canh giờ vào buổi tối, mặc cho mưa gió, sấm chớp.
Tuy không có năng khiếu nhưng nhờ kiên trì và chăm chỉ, Tư Phong dần dần tiến bộ từng ngày.
Nguyên Diệu luôn giữ tinh thần truyền đạo nhưng không ép buộc, khuyến khích nhưng không áp đặt, mở đường nhưng không dẫn đến cùng, chủ yếu là khơi dậy sự tư duy của Tư Phong, để hắn tự mình suy nghĩ và khám phá.
Thời gian trôi qua, Tư Phong dần hiểu về thanh luật, cuối cùng có thể viết thơ:
*Thiên quang đạm đạm tiếp thủy sắc, Lan quân y y phiên bích hà.
Cô ảnh quy triểu tà dương lý, Thiên nhai phiêu linh tiêu hồn khách.”*
*Ánh trời mờ mờ hòa và màu nước, Áo lan phấp phới trên những đám sen xanh.
Bóng lẻ trên chiếc thuyền trở về trong ánh hoàng hôn, Người khách lưu lạc nơi chân trời.
Nguyên Diệu nhíu mày nói: “Tuy bình trắc không đúng nhưng viết được thế này cũng khá rồi. Tiểu sinh sẽ giải thích cho ngươi, ngươi lĩnh hội về thanh luật, rồi sửa lại.”
Nguyên Diệu kiên nhẫn giải thích từng phần của bài thơ, Tư Phong chăm chú lắng nghe, ánh mắt lúc thì mơ hồ, lúc thì sáng tỏ.
Ly Nô cũng lấy một tờ giấy, một cây bút lông, ngồi dưới hành lang viết thơ.
“Dưới trăng một con mèo, trên cây hai con mèo, tổng cộng mấy con mèo? Chắc là ba con mèo. Mọt sách, lần này bài thơ của ta thông rồi chứ?”
Nguyên Diệu đổ mồ hôi lạnh, nói: “Ly Nô lão đệ, lần này ngươi thông được sáu trong bảy lỗ.”
Ly Nô cho rằng thông sáu trong bảy lỗ đã là rất tốt, vui vẻ cười.
Bạch Cơ vừa uống rượu vừa đọc kinh Phật, tranh thủ nói: “Ly Nô, thông sáu trong bảy lỗ có nghĩa là không thông. Ý của Nguyên Diệu là bài thơ của ngươi lần này cũng không khác gì lần trước.”
Ly Nô nghe vậy, ném bút xuống, mắng: “Thơ gì mà tệ quá, ta không viết nữa!”
Tư Phong tiếp tục học rất nghiêm túc, đến khi trăng lên đỉnh đầu mới cáo từ ra về.
*
Thời gian thấm thoắt trôi, chẳng mấy chốc đã gần đến lễ Thượng Tư*
* Sự kiện truyền thống của Trung Quốc, thường được gọi là ngày Ba tháng Ba. Vào ngày này, mọi người sẽ đến gần nước để rửa sạch, và tổ chức các hoạt động như dạo chơi, thi hoa cỏ, và uống rượu bên bờ nước.
Ngày hôm đó, Bạch Cơ nhận được một thiệp mời từ phủ Thái Bình, kèm theo một cành hoa phù dung còn đọng sương.
Bạch Cơ mở thiệp mời, nhìn qua rồi cười nói: “Ngày mai là lễ Thượng Tư, công chúa Thái Bình tổ chức tiệc thơ tại biệt viện bên cạnh vườn phù dung, có rất nhiều văn nhân mặc khách sẽ tham gia, Hiên Chi có muốn đi cùng không?”
Nguyên Diệu nói: “Được chứ. Tiểu sinh muốn mang Tư Phong theo, hắn cũng đã học thơ phú được một thời gian, vừa hay có thể thử sức đối thơ với mọi người.”
Bạch Cơ cười nói: “Được.”
Ly Nô vội vàng nói: “Chủ nhân, Ly Nô cũng muốn đi, năm ngoái đấu hoa cỏ* thua, năm nay Ly Nô quyết tâm thắng.”
* Một trò chơi cổ xưa. Nội dung của trò chơi thay đổi theo các triều đại. Vào thời Đường, nó là cuộc thi so sánh số lượng và loại hoa cỏ mà mỗi người thu thập được, người nào thu được nhiều hơn thì thắng.
Bạch Cơ cười nói: “Được.”
*
Ngày mùng ba tháng ba, lễ Thượng Tư.
Hồ Khúc Giang, vườn Phù Dung.
Lễ Thượng Tư là một ngày lễ rất rôm rả, văn nhân nhã sĩ và quý phụ trong thành Trường An đều ra ngoài tham gia các hoạt động. Các quý phụ thích đi dã ngoại ngắm hoa, đấu hoa, còn văn nhân nhã sĩ thì ưa chuộng tiệc thơ lưu thủy.
Sáng sớm, Bạch Cơ, Nguyên Diệu, Ly Nô và Tư Phong đã lên xe ngựa rời khỏi chợ Tây, đến hồ Khúc Giang.
Ngày mùng ba tháng ba, thời tiết mới mẻ, bên bờ nước Trường An, nhiều mỹ nhân, trên đường đi, chỉ thấy hoa đào, hoa lê thơm ngát, liễu non rủ bóng, ngựa quý, xe thơm đầy đường, du khách đông như nêm cối.
Biệt viện của công chúa Thái Bình nằm bên hồ Khúc Giang, chiếm diện tích một nửa phường, từ giữa hồ dẫn một kênh nước vào trong nhà, rất xa hoa tráng lệ.
Bạch Cơ, Nguyên Diệu, Ly Nô và Tư Phong xuống xe ngựa, được những tỳ nữ áo sặc sỡ dẫn vào trong biệt viện xa hoa, qua những cung điện nguy nga, đình đài lầu các, thẳng đến hoa viên phía sau.
Hoa viên của biệt viện Thái Bình xây dựng quanh hồ, trải đầy kỳ hoa dị thảo, rực rỡ xanh tươi, các chỗ ngồi thanh nhã dọc theo dòng nước trong vắt uốn khúc, trên bàn đặt rượu ngon món ngon, bút mực giấy nghiên, rất thích hợp để tổ chức tiệc thơ lưu thủy.
Ở lối vào hoa viên, có một hồ nước xanh biếc như ngọc bích, bên hồ đặt ba lư hương Bác Sơn, trong lư đốt hương tê giác quý, có tỳ nữ áo sặc sỡ cầm gáo gỗ, thay khách dự tiệc thực hiện nghi lễ phất tích, rửa sạch bụi bẩn, xua đuổi điềm xấu.
Bạch Cơ, Nguyên Diệu, Ly Nô và Tư Phong sau khi thực hiện xong nghi lễ phất tích* bên hồ, được tỳ nữ dẫn vào buổi tiệc, ngồi vào chỗ.
* Tục lệ cổ đại, vào ngày lễ Thượng Tư, người ta tổ chức lễ cúng tại bờ nước để rửa sạch bụi bẩn và xua đuổi những điều không may.
Bạch Cơ ngồi xuống, thấy trên bàn có rượu ngon, bèn tự rót uống.
Nguyên Diệu ngồi xuống, nhìn xung quanh, thấy công chúa Thái Bình chưa vào nhưng khách khứa đã đến gần hết, trông cách ăn mặc đều là văn nhân nhã sĩ, mọi người đang nói chuyện rất sôi nổi.
Ly Nô hoàn toàn không ngồi yên được, chờ tỳ nữ dẫn đường rời đi, hắn bèn hùng hổ chạy ra ngoài đấu hoa với các tiểu thư.
Tư Phong chưa từng thấy buổi tiệc như vậy, có hơi lo lắng, nghĩ đến lát nữa có thể phải làm thơ trước mặt mọi người, lại càng căng thẳng đến toát mồ hôi.
Nguyên Diệu an ủi Tư Phong: “Không sao, đây chỉ là buổi tiệc giải trí, nếu thuyền rượu trôi đến ngươi mà ngươi không làm được thơ thì còn có ta. Nghe và học từ những tác phẩm của người khác cũng không uổng phí chuyến đi này.”
“Vâng, thưa thầy.” Tư Phong bớt căng thẳng hơn.
Nguyên Diệu thấy Bạch Cơ đang uống rượu, không khỏi nói: “Bạch Cơ đừng chỉ lo uống rượu, nếu thuyền rượu trôi đến ngươi thì ngươi cũng phải làm thơ đấy.”
Bạch Cơ cười nói: “Đừng lo, thuyền rượu chắc chắn không trôi đến trước mặt ta đâu. Nếu ngươi còn nói nhiều thì ta chắc chắn sẽ làm cho thuyền rượu trôi đến trước mặt ngươi hết.”
Nguyên Diệu đổ mồ hôi lạnh, không dám nói thêm.
Bạch Cơ nhìn quanh, nói: “A, tên mập bên cạnh Lan Đình mặc áo màu thật khó chịu, trông cũng không giống người có học vấn, lát nữa làm cho thuyền rượu trôi đến trước mặt hắn, cho hắn xấu hổ một phen.”
“Bạch Cơ, không được trêu người!” Nhưng vì sợ thuyền rượu trôi đến mình, không làm thơ được sẽ mất mặt, tiểu sinh này chỉ dám hét lên trong lòng.
“Hiên Chi cũng đến rồi.” Một giọng nói ấm áp và nhiệt tình vang lên.
Nguyên Diệu quay đầu lại, hóa ra là Vương Duy. Vương Duy là biểu huynh của Nguyên Diệu, vốn sống ở biệt viện ngoại ô kinh thành, sau sự kiện nghiên hạt đào, chuyển vào thành, chuyên tâm trên con đường quan lộ. Vì có nhiều việc vặt ở Phiêu Miểu các, Nguyên Diệu ít có thời gian gặp Vương Duy cũng không biết con đường quan lộ của hắn thế nào, chỉ nghe nói hắn giờ đây dựa vào công chúa Thái Bình, làm mưu sĩ trong phủ Thái Bình.
“A, Ma Cật, lâu rồi không gặp.” Nguyên Diệu vội vàng đứng lên, nhiệt tình chào hỏi.
Bạch Cơ mỉm cười gật đầu chào Vương Duy.
Vương Duy cười đáp lễ rồi nhìn Tư Phong, nói: “Vị này là…?”
Nguyên Diệu cười nói: “Đây là học trò mới của tiểu sinh, tên là Tư Phong.”
Tư Phong vội vàng đứng dậy, cúi chào Vương Duy.
Vương Duy cười nói: “Đã là học trò của Nguyên Diệu, chắc chắn có tài năng, lát nữa chắc chắn có tác phẩm hay.”
Tư Phong nghe vậy, vốn đã bớt căng thẳng lại càng lo lắng hơn, toát mồ hôi.
Vương Duy và Nguyên Diệu trò chuyện một lúc, kể về tình hình gần đây, hẹn ngày khác và đi ngắm cảnh uống rượu rồi rời đi.
Đúng lúc này, công chúa Thái Bình xuất hiện, mọi người sau khi chào hỏi, buổi tiệc thơ lưu thủy chính thức bắt đầu.
Lưu thủy là một buổi tiệc mà mọi người ngồi quanh dòng suối uốn lượn, thượng nguồn sẽ thả một chiếc thuyền đựng rượu, thuyền rượu trôi theo dòng nước, dừng trước ai, người đó phải uống rượu và làm thơ. Nếu không làm được, sẽ phải uống ba chén rượu để phạt.
Để ngăn mọi người chuẩn bị trước, đề tài thơ thường được định ngay tại chỗ, hôm nay công chúa Thái Bình làm chủ tiệc, tất nhiên sẽ ra đề.
Công chúa Thái Bình suy nghĩ một chút, nhìn Bạch Cơ, nói: “Hôm nay trời đẹp, nước sông Khúc trong xanh, nhờ Phật tổ che chở, kênh nước mới này của bản công chúa vừa hoàn thành trước lễ Thượng Tư. Vậy hôm nay, hãy làm thơ về ‘nước’ hoặc ‘thiền’.”
Các văn nhân nhã sĩ thở phào nhẹ nhõm, may mà không phải đề tài khó khăn, mọi người đều không biểu hiện ra ngoài, suy nghĩ kỹ lưỡng.
Dòng nước trôi thuyền rượu, thuyền rượu trôi theo dòng nước, buổi tiệc thơ lưu thủy bắt đầu.
Tư Phong lo lắng toát mồ hôi, không ngừng suy nghĩ về bài thơ liên quan đến nước.
Nguyên Diệu nhìn thuyền rượu từ thượng nguồn trôi xuống, trôi bồng bềnh dừng lại trước mặt công chúa Thái Bình.
Nguyên Diệu ngạc nhiên, vội nhìn Bạch Cơ, thấy nàng mỉm cười gian xảo.
Chắc chắn là trò của Bạch Cơ, muốn công chúa Thái Bình làm thơ đầu tiên, thời gian ngắn như vậy, chưa chắc nàng nghĩ ra, có thể sẽ mất mặt trước mọi người.
Công chúa Thái Bình thản nhiên nâng thuyền rượu, suy nghĩ một lúc, uống cạn rượu, ngâm:
“Chúng sinh tự ràng buộc sao sám hối,
Một đèn khó xua ngàn năm tối.
Thuyền đi trong mộng say Thần thế,
Hái được hoa sen tỉnh mộng xem.”
Bài thơ vừa có hương nước, vừa có thiền ý, mọi người nghe xong, bèn rối rít khen ngợi.
“Hừ! Không ngờ gần đây nàng đọc Lục Tổ Đàn Kinh đã chuẩn bị từ trước…” Bạch Cơ uống một ngụm rượu, tự nói.
Vòng tiếp theo của tiệc thơ lưu thủy lại bắt đầu. Lần này, thuyền rượu quay tới quay lui, dừng lại trước mặt Vương Duy. Vương Duy nâng thuyền rượu, uống cạn. Hắn nhìn công chúa Thái Bình, ngâm thơ:
“Đậu đỏ sinh ở phương nam,
Mùa xuân đến, nẩy bao nhiêu cành.
Xin chàng hãy hái cho nhiều,
Vật ấy rất gợi tình tương tư.”
Công chúa Thái Bình ngạc nhiên, nghiêng đầu nhìn Vương Duy, ánh mắt phức tạp. Sau một lúc im lặng, mọi người đều cười ồ lên.
“Ha ha ha ha! Đây là bài thơ gì vậy? Lcj đề tám ngàn dặm.”
“Ha ha ha! Ma Cật, thơ này của ngươi một là không có nước, hai là không có thiền, chắc là nghe nhầm đề tài rồi!”
“Hồng đậu? Tương tư? Ma Cật, có phải ngươi đang nhớ một vị tiểu thư nào ở phường Bình Khang không?”
Nguyên Diệu không khỏi đổ mồ hôi, thay Vương Duy thấy xấu hổ. Có lẽ Vương Duy không tập trung, nghe nhầm đề tài, nếu không với tài thơ của hắn tihf thơ về nước hay thiền không phải dễ dàng sao?
Nhưng Vương Duy không hề thấy xấu hổ, hắn nhìn công chúa Thái Bình với ánh mắt sâu sắc, cười nói: “Ta nguyện tự phạt ba chén.”
Công chúa Thái Bình ra lệnh cho tỳ nữ: “Nếu Ma Cật viết về tương tư, thì mang cho hắn một bình rượu tương tư.”
Vương Duy cười nói: “Cảm ơn công chúa.”
Vương Duy uống liền ba chén rượu, dù bị mọi người cười nhạo hắn vẫn có vẻ rất vui.
Bạch Cơ nhìn công chúa Thái Bình, rồi nhìn Vương Duy, tỏ vẻ suy nghĩ.
Tiệc thơ lưu thủy tiếp tục. Lần này, thuyền rượu dừng lại trước mặt một nam nhân mập mặc áo hoa cạnh Lan Đình. Nguyên Diệu nghĩ là trò của Bạch Cơ, bèn lườm nàng một cái.
Bạch Cơ thì thầm: “Hiên Chi, thật sự không phải ta làm, ta còn đang suy nghĩ chuyện của công chúa Thái Bình và Vương công tử.”
Nam nhân mập mặc áo hoa tên là Võ Du Kỵ, là cháu trai của Võ hậu, được phong làm Thiên Thừa quận vương. Võ Du Kỵ học vấn không giỏi nhưng vẫn tham gia buổi tiệc thơ của biểu muội. Vừa rồi hắn nghĩ mãi cũng không ra bài thơ nào, thấy thuyền rượu dừng trước mặt mình, sợ đến toát mồ hôi.
Võ Du Kỵ run rẩy nâng thuyền rượu, tay không ngừng run, đầu óc trống rỗng, không nghĩ ra được chữ nào, thần kinh căng thẳng đến cực điểm, nhắm mắt lại ngất xỉu.
“Ha ha ha ha! Biểu ca đúng là vô dụng!” Công chúa Thái Bình cười lớn.
Thấy công chúa Thái Bình cười, mọi người cũng đồng loạt cười nhạo Võ Du Kỵ.
“Ha ha ha! Võ quận vương là bí văn đến ngất xỉu sao!”
“Mau đỡ hắn xuống nghỉ đi. Ha ha ha!”
Mấy tỳ nữ áo sặc sỡ lên, khiêng Võ Du Kỵ xuống trong tiếng cười nhạo của mọi người.
Sau khi mọi người cười đủ, tiệc thơ lưu thủy tiếp tục. Lần này thuyền rượu trôi theo dòng, đến trước mặt Tư Phong. Tư Phong có hơi lo lắng, Nguyên Diệu dùng ánh mắt khích lệ, bảo hắn bình tĩnh, ứng đối khôn khéo.
Tư Phong cố gắng giữ bình tĩnh, nâng thuyền rượu, cúi chào mọi người, uống cạn rượu. Nhìn cảnh xuân tươi đẹp, dòng nước róc rách, hắn ngâm thơ:
“Cá bơi trong nước xuân, chim én bay đôi,
Trên đài Cao Dương, tiên nữ đàn tỳ bà.
Say mê nghe khúc nhạc pháp, âm thanh tôn kính,
Nằm ngắm người vàng nâng đĩa ngọc..”
“Có nước có thiền, ý cảnh rất đẹp!” Vương Duy không nhịn được khen ngợi.
“Đối ngẫu chỉnh tề, dư vị vô cùng. Thiếu niên này có tài thơ hay!” Một ông lão râu tóc bạc phơ khen ngợi.
“Viết rất hay!” Công chúa Thái Bình cũng khen.
Nghe thấy mọi người khen mình, Tư Phong không khỏi vui mừng, nghĩ đến những ngày học thơ vất vả, lòng ngọt ngào lẫn chua xót, đủ mọi cảm xúc. Tất cả sự cố gắng đều được đền đáp, hắn vừa muốn khóc, vừa vui mừng muốn cười. Hắn nhìn Nguyên Diệu, thấy thầy đang mỉm cười nhìn mình, nụ cười ấm áp như gió xuân, sưởi ấm lòng người.
Nguyên Diệu rất vui, những ngày này Tư Phong đã không uổng công, hắn cũng có thể viết ra những bài thơ rất hay.
Vòng tiếp theo của tiệc thơ lưu thủy tiếp tục, thời gian trôi qua như nước trong tiếng cười vui. Trừ Bạch Cơ, mọi người đều được thuyền rượu chúc phúc, làm thơ.
Sau khi tiệc thơ lưu thủy kết thúc, Bạch Cơ, Nguyên Diệu, Tư Phong chuẩn bị về nhưng không thấy Ly Nô đâu. Bạch Cơ, Nguyên Diệu, Tư Phong đến vườn hoa nơi các tiểu thư đấu hoa, nhìn thấy một đám nữ nhi xinh đẹp hơn hoa xuân, đầy hương thơm, tiếng cười rộn ràng, không thể tìm thấy Ly Nô.
Nguyên Diệu vội hỏi một tiểu thư mặc trang phục cung đình trang điểm hoa đào.
“Tỷ ơi, tỷ có thấy một thiếu niên mặc áo đen không?”
Cô nương che miệng cười: “Có một vị công tử áo đen đẹp trai, muốn chơi đấu hoa cỏ với chúng ta, sau đó đi hái hoa tìm cỏ, chúng ta đã đấu ba vòng rồi mà vẫn chưa thấy trở lại.”
Nguyên Diệu vội vàng nói: “Cảm ơn tỷ.”
Nguyên Diệu hỏi: “Bạch Cơ, Ly Nô lão đệ chạy đi đâu hái hoa tìm cỏ rồi?”
Bạch Cơ đưa tay lên che trán, nhìn về dãy núi phía nam, lo lắng nói: “Hy vọng Ly Nô không làm trọc cả dãy Nam Sơn, nếu không lão thần núi keo kiệt kia lại nổi giận, cho chúng ta ăn cái thứ quả quỷ kia để tạ tội mất.”
Tư Phong nói: “Bạch Cơ đại nhân, để ta đi Nam Sơn tìm con mèo đen đó về.”
Bạch Cơ cười nói: “Tư Phong, nhất định phải mang con mèo ngốc đó về đấy.”
Tư Phong cúi chào, rồi đi ra sau một tảng đá lớn không người.
Chẳng bao lâu, sau tảng đá lớn bay lên một con chim lông xám mỏ dẹp, lông vũ nhẹ nhàng như gió, trên đầu có một cái lông màu sắc rực rỡ tung bay theo gió. Chim xám vỗ cánh bay về phía Nam Sơn, chỉ trong chớp mắt đã mất hút.
Nguyên Diệu há hốc mồm, nói: “Tư Phong biết bay sao? Ta cứ tưởng nó như con vịt, chỉ biết bơi.”
Bạch Cơ cười nói: “Tư Phong sinh ra từ gió, nắm giữ tám hướng của gió, có thể biết được hướng gió đến và đi, sao lại không biết bay?”
Nguyên Diệu thở dài: “Hóa ra Tư Phong lại là thần vật như vậy.”
Bạch Cơ và Nguyên Diệu rời biệt viện Thái Bình, quay về Phiêu Miểu Các.
Đến tận hoàng hôn, Bạch Cơ và Nguyên Diệu ngồi trong sân sau, ăn mận và thịt khô, Tư Phong mới cùng Ly Nô quay về. Tư Phong mệt mỏi, sắc mặt tái nhợt, Ly Nô ủ rũ, thở dài thườn thượt.
Nguyên Diệu ngạc nhiên hỏi: “Ly Nô, Tư Phong, đã xảy ra chuyện gì vậy?”
Tư Phong nói: “Đều tại con mèo đen này gây chuyện, người ta đấu hoa cỏ, nó đấu khí, gần như làm trọc cả Nam Sơn, lão thần núi không cho nó đi. Ta nhớ lời dặn của Bạch Cơ đại nhân, đành phải cướp nó đi, cõng nó bay theo gió, đấu tranh với thần núi. Lão thần núi kia cũng cứng đầu, quyết tâm đuổi theo chúng ta không buông, ta bay từ Bất Chu đến Côn Lôn, từ Bắc Hải đến Quy Hư, gần như bay khắp bốn phương trời đất, chỉ thiếu bay đến Bích Lạc Hoàng Tuyền, mới làm lão mệt đứt hơi, buông tha chúng ta. Trải qua một phen vất vả, cuối cùng ta cũng không phụ lòng Bạch Cơ và thầy, mang con mèo đen này về.”
Nguyên Diệu kinh ngạc đến há hốc mồm.
Bạch Cơ cười nói: “Tư Phong, vất vả cho ngươi rồi.”
Tư Phong nói: “Không vất vả, Bạch Cơ đại nhân khách sáo quá.”
Ly Nô ủ rũ nói: “Ta cứ tưởng đến Nam Sơn có thể hái thêm nhiều hoa cỏ, mang về chắc chắn sẽ thắng, ai ngờ lại bị lão thần núi đáng ghét đó bắt. Trải qua một phen vất vả, đợi con chim mỏ dẹp này bay đến sông Khúc thì vườn hoa đã vắng người, cuộc thi hoa cỏ đã kết thúc từ lâu. Năm nay ta lại thua rồi.”
Nguyên Diệu chỉ có thể an ủi Ly Nô: “Ly Nô, còn có năm sau, năm sau cố gắng hơn.”
Ly Nô cầm lấy một quả mận, vừa cắn vừa khóc: “Năm sau có khi lại thua nữa mất!”
Nguyên Diệu mời Tư Phong ở lại ăn tối nhưng Tư Phong khéo léo từ chối.
Tư Phong yếu ớt nói: “Thưa thầy, hôm nay ta bay khắp đông tây nam bắc, tiêu hao quá nhiều yêu lực, phải về Tương Châu dưỡng sức một thời gian mới hồi phục được. Sau này, ta không thể đến theo học thơ phú với thầy nữa. Khoảng thời gian này học theo thầy, ta đã được lợi rất nhiều. Tư Phong xin từ biệt.”
“À, vậy là chia tay sao?” Nguyên Diệu trong lòng đột nhiên có hơi không nỡ.
Tư Phong nói: “Chia tay là khởi đầu của gặp gỡ, đợi ta dưỡng sức hồi phục thì sẽ đến Miểu Các tìm thầy.”
“Tư Phong, đợi đã.” Nguyên Diệu nói.
Nguyên Diệu vội vàng đi vào trong, lục lọi trên kệ báu tìm một tập giấy có chữ viết, rồi lấy một cái bọc, quay lại sân sau.
Tư Phong nhìn tập giấy dày cộm trong tay Nguyên Diệu, mới phát hiện đó là những bài thơ ngươi viết trong thời gian học, từ những bài non nớt đến những câu đối chỉnh tề, không thiếu một bài. Tưởng chừng như viết chơi nhưng lại được người khác cẩn thận giữ gìn, Tư Phong không khỏi cảm động.
Nguyên Diệu dùng cái bọc bọc những tờ giấy lại đưa cho Tư Phong, nói: “Tư Phong, đây là sự tiến bộ từng chút một của ngươi. Ngươi mang về cho phụ thân xem, chắc chắn ông sẽ cảm thấy vui mừng.”
Tư Phong mũi cay cay, nói: “Cảm ơn thầy. Đợi ta dưỡng sức hồi phục rồi sẽ đến tìm thầy.”
“Ừm. Ta sẽ chờ ngươi.” Nguyên Diệu nói.
Tư Phong đeo bọc lên, xòe cánh bay lên trời trong ánh hoàng hôn.
“Thưa thầy, còn một món quà ta định sau khi xuất sư mới tặng thầy, ai ngờ hôm nay xảy ra sự cố này nên ta phải về quê trước. Món quà đó là do cha ta đích thân làm, ta để ở trên Linh Đài phía nam cung Trường An, tối nay thầy đi lấy nhé.”
Giọng của Tư Phong dần dần biến mất trong bóng hoàng hôn.
Đêm khuya, cung Trường An.
Bạch Cơ và Nguyên Diệu đứng trên Linh Đài, nhìn một chiếc phong hướng bằng đồng hình chim. Trên con chim đồng đó có treo một chiếc áo mỏng như cánh ve.
Nguyên Diệu nhìn chiếc phong hướng bằng đồng hình chim, một ký ức đã lâu từ từ hiện lên trong đầu. Khi ngươi còn nhỏ, hình như đã từng thấy một con chim đồng như thế này.
Khi Nguyên Diệu tám tuổi, cha hắn là Nguyên Đoạn Chương, làm Trường sử ở Tương Châu, đưa gia đình sống trong phủ đài. Cửa sổ phòng sách của Nguyên Diệu đối diện với quảng trường của phủ đài, phía bắc quảng trường có một đài đá cao mười lăm trượng, trên đài đá có một chiếc phong hướng bằng đồng hình chim.
Lúc đó Nguyên Diệu còn có thể thấy một số thứ không tồn tại trong mắt người đời. Hắn thấy trên con chim đồng đó có một con chim mỏ dẹp kỳ lạ luôn đậu ở đó, nó thích dùng ánh mắt từ ái nhìn hắn viết chữ, nhìn suốt mấy giờ đồng hồ. Bây giờ nghĩ lại, con chim đó chẳng lẽ là cha của Tư Phong sao?
“Bạch Cơ, Tư Phong sống trên con chim đồng này sao?”
Bạch Cơ cười nói: “Đúng vậy. Con chim đồng này gọi là Tương Phong Ô, loài chim Tư Phong đều sống trên Tương Phong Ô, vì Tương Phong Ô là dụng cụ quan sát hướng gió, nằm ở vị trí cao, không bị che khuất. Loài chim Tư Phong trú ngụ trên Tương Phong Ô, có thể hấp thu gió từ tám hướng.”
Nguyên Diệu bừng tỉnh ngộ, nói: “Hóa ra, Tư Phong sống ở cung Trường An không phải vì thủy đài mà là vì Tương Phong Ô. Bạch Cơ, chiếc áo trên Tương Phong Ô có phải là món quà mà Tư Phong nói không? Cao quá, ta không lấy được.”
Một cơn gió thổi qua, chiếc áo mỏng như cánh ve bị thổi rơi xuống, đáp lên đầu Nguyên Diệu.
Nguyên Diệu cầm áo trong tay, cảm thấy chất vải mỏng nhẹ như gió, gần như không có trọng lượng. Hắn nhìn kỹ, chiếc áo không có màu sắc, chỉ phản chiếu ánh trăng, và hoàn toàn không có dấu vết của kim chỉ.
Nguyên Diệu rất tò mò, nói: “Bạch Cơ, đây là loại áo gì? Tại sao không thấy dấu kim chỉ?”
Bạch Cơ cười nói: “Đây là Thiên Y. Thiên Y không được may bằng kim chỉ, tất nhiên không có khe hở, chỉ những con chim Tư Phong có tu vi cao mới có thể dùng gió làm nguyên liệu để làm ra Thiên Y.”
Nguyên Diệu há hốc mồm kinh ngạc, nói: “Đúng là kỳ diệu! Bạch Cơ, Thiên Y có tác dụng gì?”
Bạch Cơ cười nói: “Mặc Thiên Y có thể điều khiển gió bay lượn, lên đến Bích Lạc, xuống Hoàng Tuyền như chim Tư Phong vậy.”
Nguyên Diệu phấn khích nói: “Vậy ta mặc Thiên Y, có thể đi dạo đêm với ngươi mà không sợ bị lính tuần tra bắt, trong tình huống nguy cấp cũng không gây phiền phức cho ngươi và Ly Nô lão đệ rồi?”
Bạch Cơ che miệng cười nói: “Về lý thuyết thì là vậy.”
“Thực tế thì sao?”
“Khụ khụ, Hiên Chi không thấy Thiên Y này có hơi nhỏ sao?”
Nguyên Diệu nhìn kỹ, chiếc Thiên Y trong tay không chỉ là chút nhỏ mà là quá nhỏ, chỉ phù hợp với một đứa trẻ mười hai, mười ba tuổi.
Đầu óc Nguyên Diệu bất chợt mơ màng, hắn nhớ lại lời của Tư Phong.
“Món quà đó là do cha ta đích thân làm cho thầy.”
Nguyên Diệu không hiểu, nói: “Tại sao cha của Tư Phong lại làm cho ta một bộ đồ trẻ con?”
Bạch Cơ nói: “Hiên Chi, lần cuối cùng ngươi gặp cha của Tư Phong là khi nào?”
Nguyên Diệu nghĩ một lúc, nói: “Khoảng mười hai, mười ba tuổi, lúc đó cha ta một lần nữa vì lời nói mà bị tội, bị cách chức Trường sử, đày đến vùng quê hẻo lánh. Ta theo cha rời khỏi phủ đài, từ đó không còn thấy Tương Phong Ô cũng không thấy chim Tư Phong nữa.”
Bạch Cơ cười nói: “Hóa ra là vậy. Trong mắt cha của Tư Phong, Hiên Chi vẫn là đứa trẻ mười hai, mười ba tuổi đó nên Thiên Y mà ông làm cũng có kích thước lúc đó của ngươi.”
“À, chim Tư Phong không biết con người sẽ lớn lên sao?”
Bạch Cơ cười nói: “Không phải không biết mà là không nhận ra. Mười năm ngắn ngủi, con người sẽ thay đổi rất nhiều, từ trẻ con thành người lớn. Nhưng mười năm đó trong mắt của phi nhân lại như một cái chớp mắt, không có gì thay đổi, rất khó nhận ra.”
“Thật vậy sao?” Nguyên Diệu buồn bã nói. Hắn cảm thấy hơi buồn, không phải vì Thiên Y không vừa mà vì sự khác biệt trong cách đo lường thời gian giữa con người và phi nhân, khiến hắn thấy buồn và cô đơn.
“Đúng vậy.”
“Bạch Cơ, mười năm, hai mươi năm, ba mươi năm, năm mươi năm nữa, tóc ta đã bạc trắng, còn ngươi và Ly Nô lão đệ vẫn như bây giờ, điều đó làm ta thấy buồn và cô đơn.”
Ánh mắt của Bạch Cơ lóe lên một chút buồn, nụ cười dần biến mất trên môi, chị thì thầm: “À, nghĩ đến điều này, ta đột nhiên thấy buồn và cô đơn hơn cả Hiên Chi.”
Nhìn bóng dáng buồn bã của Bạch Cơ, lòng Nguyên Diệu càng thêm đau đớn, hắn cố gắng nặn ra một nụ cười, nói: “Bạch Cơ, đừng nghĩ nhiều, ta còn lâu mới già mà. Đừng nói chuyện thời gian nữa, hãy cùng ngắm trăng đi.”
Bạch Cơ ngẩng đầu, nhìn một lần trăng non trên tường cung, rồi nhìn Nguyên Diệu, nói: “Trăng đêm nay thật đẹp.”
Nguyên Diệu cười nói: “Vì có ngươi ở đây nên trăng mới đẹp như vậy.”
Bạch Cơ vui vẻ cười, nói: “Hiên Chi nên nói ta đẹp hơn cả ánh trăng, như vậy ta sẽ vui hơn.”
Nguyên Diệu toát mồ hôi lạnh, trong lòng nghĩ: “Lời đó ta sẽ không bao giờ nói ra.”
“Hiên Chi, còn Thiên Y thì sao?”
“Đưa cho Bạch Cơ đi.”
“Tại sao?”
“Vì Thiên Y trông rất quý hiếm, không đưa cho ngươi thì ngươi cũng sẽ tìm cách lấy đi, chi bằng đưa cho ngươi để ngươi đỡ tốn sức, bớt nghĩ kế xấu.”
“Ha ha ha ha!” Bị đoán trúng ý nghĩ, Bạch Cơ chỉ có thể cười để che giấu.
“Bạch Cơ, Thiên Y đưa cho ngươi nhưng ta có một điều kiện.”
“Điều kiện gì?”
“Thần núi Nam Sơn cũng không dễ dàng, ngươi nghĩ cách trồng lại hoa cỏ bị Ly Nô lão đệ làm trọc cho Nam Sơn nhé.”
“Ừ, được thôi, ta sẽ dùng phép Dời Núi một lần nữa, chuyển một ít hoa cỏ tươi tốt từ núi khác đến.”
“Bạch Cơ đúng là một người tốt.”
“Không, ta là một con rồng tốt.”
Một cơn gió thổi qua, gió khẽ rên rỉ, mùa xuân lại sắp qua đi.
– —
Chương này chú thích hơi nhiều vì có thơ, em chỉ chú thích mấy bản thơ mà Nguyên Diệu nói đến vần điệu thôi vì em ngu thơ. Còn mấy bài thơ không nói vần điệu thì em dịch thẳng lun… Còn cái bài tương tư là em thấy trên thivien ạ, tại nó nổi tiếng nên em hem dịch hihi
(Hết phần 4, gặp lại vào ngày đẹp trời ạ)